Tiếp nhận thơ haiku ở Việt Nam

20:17 - 14/12/2015

Giới thiệu khái quát về thơ haiku và quá trình tiếp nhận vào Việt Nam

 

Lời Ban biên tập: Mặc dù thơ haiku mới được GS. Lưu Đức Trung giới thiệu cho một vài bà con nhưng những bài thơ haiku gần đây của một số tác giả người làng đăng tải trên caolaoha.com có chất lượng khá cao. Theo tin mà Ban biên tập được biết thì GS. Lưu Đức Trung đã tuyển chọn được trên 20 bài từ những bài đã đăng trên caolaoha.com và trong các comments bình luận của 12 tác giả để in trong tập thơ haiku số đầu xuân 2017. Đây là một vinh dự và tự hào lớn đối với quê hương Cao Lao Hạ, nơi sinh ra nhà thơ Lưu Trọng Lư, một trong những người đầu tiên khởi xướng thơ mới và GS. Lưu Đức Trung, một trong những người đi đầu trong việc phát triển thơ haiku tại Việt Nam. Để hiểu thêm về thể loại thơ này, xin trân trọng giới thiệu bài viết của GS. Lưu Đức Trung đăng trên Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ngày 28/9/2014

 

Trân trọng.

 

 

TIẾP NHẬN THƠ HAIKU TẠI VIỆT NAM

 

Haiku là thể thơ thiền độc đáo, giàu tính trí tuệ và tinh thần nhân văn. Thể thơ ngắn nhất thế giới này được coi là tinh hoa của thơ ca và văn học Nhật Bản – nền văn học tôn thờ thiên nhiên và cái đẹp. Hiện nay, haiku đã trở thành thể thơ quốc tế (world haiku), được yêu chuộng trên thế giới, được nhiều nước đón nhận và sáng tác bằng chính ngôn ngữ của mình. Trong đó, có Việt Nam.

 

Sau hơn 40 năm chính thức du nhập vào Việt Nam, haiku đã thực sự bén duyên trên mảnh đất Việt vốn giàu truyền thống thi ca. Nếu như thơ Đường Trung Quốc là thể thơ du nhập sớm nhất tồn tại trong văn học Việt Nam cả ngàn năm nay, thì haiku Nhật Bản là thể thơ ngoại nhập thứ hai tuy chỉ mới vào Việt Nam khoảng nửa thế kỉ. Tuy nhiên, ngày nay thơ Đường không được sáng tác nhiều, trong khi đó haiku lại đang được người Việt đón nhận nồng nhiệt. Sự hội nhập và phát triển của thơ haiku trên đất Việt là minh chứng cho thành công của quá trình giao lưu văn hóa Việt – Nhật, hai đất nước vốn có nhiều điểm tương đồng về văn hóa.

 

Quá trình du nhập của thơ haiku vào Việt Nam

 

Tại Việt Nam, từ trước năm 1945 đến năm 1975, một số nhà thơ, trí thức lớn ở nước ta như Vũ Hoàng Chương, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Tường Minh, Ngô Văn Tao, Bùi Giáng và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là những người đã tiếp cận thơ haiku từ rất sớm. Sự phát triển của nền văn hóa, học thuật miền Nam lúc bấy giờ đã tạo tiền đề thúc đẩy quá trình dịch thuật, giới thiệu tinh hoa văn học, văn hóa nước ngoài, trong đó có văn học Nhật Bản – một cường quốc đang lớn mạnh ở phương Đông. Việc du nhập haiku nằm trong xu hướng chung ấy. Sớm nhất, phải kể đến một số bài dịch thơ haiku trong bài viết Thi văn Nhật Bản với phong trào Âu hóa đăng trên báo Sài Gòn của Hàn Mạc Tử (1936). Đầu thập niên 1970, các bản dịch thơ haiku bằng tiếng Anh của H.G. Henderson được Tuệ Sỹ, Nguyễn Tường Minh dịch sang tiếng Việt. Hai tác phẩm xuất bản sớm nhất phải kể đến là: Hòa ca (nhiều tác giả - bản dịch của Nguyễn Tường Minh, Sài Gòn Sông Thao, 1971), và Luyến ca (nhiều tác giả - bản dịch của Nguyễn Tường Minh, Sài Gòn Sông Thao, 1972).

 

Từ sau năm 1975, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu là người có công làm cho thơ haiku được biết đến nhiều hơn ở Việt Nam khi ông lần lượt xuất bản những công trình nghiên cứu công phu về thơ haiku. Công trình đầu tiên của ông là Basho và thơ haiku (Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1994), sau đó là hàng loạt công trình khác về haiku và thơ ca Nhật Bản: Nhật Bản trong chiếc gương soi (Nxb. Giáo dục, 1995), Thơ ca Nhật Bản (Nxb. Giáo dục, 1998), Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868 (Nxb. Giáo dục, 2003), Ba ngàn thế giới thơm (Nxb. Văn nghệ, 2007).

 

Bên cạnh đó, có một số công trình của các dịch giả khác: Basho, Con đường hẹp thiên lí (Hàn Thủy Giang dịch, Nxb. Hà Nội, 1998); Basho, Lối lên miền Oku (Vĩnh Sính dịch, Nxb. Thế giới, 1999); H.G. Henderson, Hài cú nhập môn (Lê Thiện Dũng dịch, Nxb. Trẻ, 2000); Haiku - Hoa thời gian (Lưu Đức Trung - Lê Từ Hiển biên soạn, Nxb. Giáo dục, 2007).

 

Các công trình nghiên cứu trên đã đặt nền tảng lí thuyết về haiku ở Việt Nam, từ đó giúp người đọc có cái nhìn toàn diện, bao quát hơn về một thể thơ vốn còn khá xa lạ với người Việt. Những công trình của Nhật Chiêu đã đóng góp quan trọng vào việc giảng dạy và phổ biến thơ haiku ở nước ta. Nhật Chiêu không chỉ là nhà nghiên cứu mà còn là dịch giả nổi tiếng với những bản dịch haiku để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Ở Việt Nam, ông được coi là “ông hoàng của thơ haiku”, người khơi nguồn mạch haiku trên đất Việt.

 

Một dấu mốc quan trọng của việc haiku được công nhận một cách chính thức ở Việt Nam là năm 2002, thơ haiku được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào giảng dạy chính thức ở chương trình lớp 10, trung học phổ thông, qua sự giới thiệu của PGS. Lưu Đức Trung và PGS.TS. Đoàn Lê Giang.

 

Năm 2007, PGS. Lưu Đức Trung đã thành lập Câu lạc bộ Haiku Việt thành phố Hồ Chí Minh, mở ra một sân chơi bổ ích cho những người yêu thơ haiku trên cả nước. Đến nay, sau 7 năm hoạt động, Câu lạc bộ đã có 10 số chuyên san được xuất bản, hàng chục tập thơ của các thành viên Câu lạc bộ và hàng trăm cộng tác viên trên khắp mọi miền đất nước. Ở Hà Nội cũng đã có Câu lạc bộ Haiku Việt Hà Nội - câu lạc bộ thơ haiku thứ hai ở Việt Nam, đang hoạt động tích cực, góp phần thúc đẩy sự phát triển thể thơ này.

 

Năm 2010, Lãnh sự quán Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh lần đầu tiên phát động cuộc thi sáng tác thơ haiku ở Việt Nam. Đây là cuộc thi được tổ chức định kì hai năm một lần và ngày càng thu hút sự tham gia của đông đảo người yêu thơ.

 

Có thể nói haiku không còn xa lạ đối với người Việt nữa. Rất nhiều người yêu thích, đọc haiku, sáng tác haiku và nghiên cứu chuyên sâu về thể thơ này. Haiku trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của một bộ phận trí thức và những người yêu thơ văn ở Việt Nam.

 

Đặc điểm tiếp nhận haiku ở Việt Nam

 

Việc tiếp nhận thơ haiku ở Việt Nam không chỉ thông qua con đường giới thiệu, dịch thuật, nghiên cứu mà thể hiện rõ nhất ở phương diện sáng tác thơ haiku bằng tiếng Việt. Thông qua việc đối chiếu haiku Việt và haiku Nhật, có thể tìm thấy đặc điểm tiếp nhận haiku của người Việt Nam.

 

Trong haiku Nhật, thiên nhiên giữ vị trí chủ đạo, có đề tài thế sự nhưng không nhiều. Đáng chú ý là haiku Nhật không có đề tài tình yêu. Trong haiku Việt, đề tài chính vẫn là thiên nhiên nhưng mở rộng rất nhiều mảng đề tài thế sự: tình mẫu tử, phụ tử, tình thầy trò, chồng vợ, tình bạn bè, tình yêu Tổ quốc…, đặc biệt, là đề tài tình yêu.

 

Thiên nhiên vẫn là mảng quan tâm lớn nhất của người làm thơ haiku Việt, nhưng vì có sự khác biệt về thiên nhiên và thổ nhưỡng, khí hậu giữa hai nước nên haiku Việt có những hình ảnh thiên nhiên (quý ngữ chỉ mùa) khác với haiku Nhật. Bên cạnh việc mượn những hình ảnh thiên nhiên ở Nhật như hoa anh đào, tuyết, lá phong thì haiku Việt tràn ngập các hình ảnh đặc trưng cho thiên nhiên xứ sở Việt Nam như rau muống, hoa phượng, lũy tre, hương bưởi, hoa quỳnh, hoa sứ...

 

Hương bưởi đâu đây/ thơm lây ngọn gió/ tương tư tóc dài (Vũ Tam Huề)

Tạ lòng tri âm/ thâu đêm ai đợi/ quỳnh buông trắng ngần (Nguyễn Bao)

Trên cành phượng nhỏ/ ngàn đôi môi đỏ/ hát giữa thiên thanh (Phượng Nhi)

 

Bất kể hình ảnh nào của thiên nhiên, xứ sở Việt cũng có thể được đưa vào thơ. Các nhà thơ Việt dường như không quan tâm lắm đến chuyện “mùa nào thức ấy” một cách chặt chẽ như trong haiku Nhật mà luôn có sự uyển chuyển, đa dạng, không giới hạn biên độ đề tài.

 

Ở đề tài thế sự cũng vậy, bất kì vấn đề gì trong cuộc sống con người đều có thể được các nhà thơ sáng tác thành haiku. Đó có thể là chuyện kẹt xe – hình ảnh quen thuộc với tình trạng giao thông ở Việt Nam: Nắng hè/ kẹt xe/ thèm tiếng ve (Võ Văn Nam). Hay những tình cảm giữa người với người ít thấy trong haiku Nhật như tình thầy trò: Rời nhà thầy/ nắng rẽ mây/ khai sáng (Quỳnh Trang), tình cha con: Mồ hôi/ kết thành muối mặn/ trắng lưng cha (Thu Nở), và tình bạn bè: Tiễn bạn bên rừng/ bỗng dưng khóe mắt/ đầy ánh trăng xuân (Đông Tùng)…

 

Điều đặc biệt nhất trong haiku Việt là sự xuất hiện và lên ngôi của đề tài tình yêu. Điều này có thể làm cho những ai quen đọc thơ haiku Nhật cổ điển sẽ thấy “buồn cười”. Nhưng thực ra Việt Nam không phải là quốc gia đầu tiên biến haiku thành thơ tình. Ở Mĩ đã có hẳn dòng erotic haiku (haiku tình yêu, haiku nhục cảm) và được đón nhận rộng rãi: Đang giữ anh/ bên trong em nồng ấm/ tiếng chim sẻ vang lừng (Virgil), Sâu thẳm/ tôi vào bên trong/ và răng nàng hé sáng (Ruth Yarrow)... (Nhật Chiêu dịch). Haiku về tình yêu ở Việt Nam không phải là hiện tượng hi hữu, ngoại lệ, và nó thể hiện được đặc tính tâm lí của người Việt: thích tỏ tình bằng thơ (ở Nhật, tanka là thể thơ dành riêng cho việc thể hiện tình cảm luyến ái). Người Việt đã thổi luồng gió mới là tình yêu vào haiku, và thật bất ngờ khi dường như haiku Việt đã thành công ở điều này. Nhiều bài thể hiện tình yêu một cách ý nhị, tinh tế nhưng không làm mất đi tinh thần haiku:

 

Nép vào trăng cao/ một bờ môi nhỏ/ cùng ta đêm nào (Thiên Bảo)

Cúc áo bung ra/ trắng ngần/ hạ đến (Đức Việt)

Trăng mờ/ leo đồi/ vướng gai trinh nữ (Lưu Đức Trung)

Cúp điện/ em ngủ ngon lành/ gió từ tay anh (Thanh Tùng)

 

Hình thức thơ

 

Nhìn chung, thơ haiku Việt vẫn giữ được tinh thần cơ bản về mặt hình thức của haiku Nhật, đó là tính cực ngắn, cô đọng, hạn chế tối đa số lượng từ ngữ. Haiku Nhật, một bài thơ có 17 âm tiết, được ngắt nhịp 5/7/5 và trong suốt mấy thế kỉ hình thành và phát triển, dường như chưa bao giờ nó ra ngoài quy phạm ấy.

 

Tuy nhiên, đến Việt Nam, do đặc điểm loại hình ngôn ngữ khác nhau nên bài haiku Việt thường không thể theo cấu trúc ngắt nhịp 5/7/5 như haiku Nhật. Một bài haiku Việt có số lượng âm tiết tối đa là 17 (đây cũng chỉ là quy ước tạm thời), và cách ngắt dường như không có giới hạn. Thiết nghĩ điều này khá thú vị bởi số lượng âm tiết trong một bài, hay cách ngắt nhịp trong từng bài thường tùy thuộc vào mạch cảm xúc của người viết. Vì vậy haiku Việt thường không cố định cách ngắt nhịp hay số chữ/ âm tiết. Ví dụ:

 

Nhịp 2/2/2: Bà lão/ liêu xiêu/ nắng chiều (Minh Vi)

Nhịp 2/1/4: Sài Gòn/ mưa/ oằn mình phố ngập (Trần Xuân Tiến)

Nhịp 4/4/4: Lau trắng ven đồi/ lặng nhìn lữ khách/ trong màn mưa rơi (Nhã Trúc)

 

Cách ngắt nhịp 3/3/3 hay 4/3/3 hay 4/4/4 là cách ngắt nhịp phổ biến và được ưa chuộng nhất trong haiku Việt.

 

Haiku Việt đã thoát ra khỏi cái khuôn khổ giới hạn, quy định vốn có của haiku Nhật, thể hiện sự tự do, phóng khoáng trong hình thức sáng tạo. Tuy nhiên, điều quan trọng làm nên tinh thần của haiku là “tính cực ngắn” trong câu chữ, các nhà thơ haiku Việt vẫn luôn cố gắng giữ được trong sự uyển chuyển, tinh tế và sống động nhất có thể của ngôn ngữ Việt.

 

Về vấn đề “vần” trong thơ haiku Việt, đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng haiku không nên có vần (vì thơ Nhật ít/không gieo vần trong một câu haiku mà chỉ có từ ngắt). Nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng việc gieo vần trong thơ haiku Việt sẽ làm cho bài thơ hay hơn, dễ nhớ hơn.

 

Trên thực tế, cái hay của một bài haiku là ở tứ thơ và ý nghĩa thiền vị của nó tạo ra qua hình ảnh, ngôn từ. Việc gieo vần hay không nhìn chung không ảnh hưởng nhiều đến nội dung, tứ thơ. Có những bài haiku Việt không gieo vần nhưng vẫn rất hay vì nó mang đậm tính thiền, đi vào chiều sâu của sự suy nghiệm và nắm bắt khoảnh khắc:

 

Trong nắng mai/ giọt sương tự hỏi/ tan rồi hay chưa? (Thanh Tùng)

Vỏ sò trên vách núi/ con sóng nào/ nổi trôi (Mai Liên)

 

Tuy vậy, xu hướng làm thơ haiku gieo vần ngày càng thu hút nhiều haijin(*). Có lẽ vì những bài haiku gieo vần đọc lên nghe âm vang, dễ đi vào lòng người. Cùng một tứ thơ nhưng người đọc sẽ thích nghe bài haiku có gieo vần hơn. Tuy nhiên, việc gieo vần phải tự nhiên, phù hợp với tứ thơ, tư tưởng, tình cảm trong thơ.

 

Theo nhịp chuông lay/ tương phùng một thoáng/ để rồi mây bay (Đông Tùng)

Chiếc quạt ngang trời/ cánh diều nhỏ/ cho mùa hạ vơi (Thái Trọng)

Trăm năm ơi/ kiến bò miệng chén/ người leo vách đời (Thùy Nhung)

 

Với những bài thơ được gieo vần như vậy, vần điệu đã làm cho tứ thơ đẹp và dễ nhớ hơn. Tuy nhiên, nếu lạm dụng vần hoặc gieo vần gượng ép sẽ dễ đưa haiku vào chỗ nhàm chán, trùng lặp về mặt tiết tấu, hạn chế khả năng sáng tạo hình ảnh thơ.

 

Tinh thần thiền tông

 

Tinh thần thiền tông là yếu tố quan trọng nhất làm nên giá trị, vẻ đẹp của thơ haiku. Yếu tố thiền trong thơ haiku thường được thể hiện qua những khoảnh khắc “đốn ngộ” của thi nhân về đời sống: sự bình đẳng, vô sai biệt; sự hòa hợp giữa tiểu ngã và đại ngã, mối tương giao giữa con người và vũ trụ, khoảnh khắc và thiên thu… Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các nhà thơ haiku vĩ đại của Nhật Bản đều là những thiền giả uyên thâm. Basho là nhà thơ và cũng là thiền sư. Đỉnh mây/ tan bao nhiêu cụm/ cho trăng lên đầy. Bài haiku này của Basho không chỉ là hình ảnh đẹp, kì vĩ của vũ trụ mà còn là một công án thiền với ý vị uyên thâm. Yếu tố thiền, tinh thần thiền là điểm khó nhất trong thơ haiku. Đây là thử thách với bất kì haijin nào.

 

Một số nhà thơ haiku Việt Nam đã có được những bài thơ mang đậm thiền vị. Nhưng số này không nhiều.

 

Mảnh ngói rơi/ giật mình/ ánh trăng soi (Lưu Đức Trung)

 

Bài thơ là khoảnh khắc con người đối diện với cái đẹp. Mảnh ngói vô tình rơi xuống, đồng thời là cơ hội để tâm hồn con người có thể phá cũi xổ lồng, thể nhập vào vũ trụ vô biên bên ngoài. Khoảnh khắc ấy, nếu không mở rộng lòng ta, “thức nhọn giác quan” thì không dễ gì có được.

 

Trên lá môn non/ giọt sương đọng/ vầng trăng tí hon (Trần Đức Việt)

 

Bài thơ đoạt giải nhất Cuộc thi thơ haiku lần thứ 3 này cũng là một bài thơ đẹp, đậm đà thiền vị. Giọt sương nhỏ đọng trên lá môn non, ít ai để ý nhưng nó có thể bao chứa trong mình cả vầng trăng – vẻ đẹp lớn lao của vũ trụ.

 

Thiền vị trong thơ haiku là điều không thể có được trong một sớm một chiều. Các haijin cần trau dồi những kinh nghiệm thiền học, kinh nghiệm đời sống, sự nhạy bén, tinh tế trong cảm xúc, và đặc biệt là luôn giữ được một tâm hồn nguyên sơ, trong sáng với cái nhìn trẻ thơ trước cuộc sống. Những bài thơ nhỏ bé như hạt cát, như bông hoa dại, như hạt bụi giữa ánh sáng mặt trời… ấy có thể đánh thức sức mạnh tinh thần, đời sống tâm linh cao cả trong mỗi người, đó cũng là điều chúng ta thường đánh mất trong một cuộc sống hiện đại tràn ngập những máy móc, thiết bị công nghệ như ngày nay.

*

* *

Tiếp nhận thơ haiku ở Việt Nam đã trải qua một quá trình hơn 40 năm. Thể thơ này chỉ thực sự được biết đến vào những thập niên 70 - 80 của thế kỉ trước. Sang đầu thế kỉ XXI, với tâm huyết của những nhà nghiên cứu và người yêu thơ haiku, haiku Nhật đã thực sự bén rễ và phát triển mạnh. 40 năm của haiku so với 1000 năm du nhập vào Việt Nam của thơ Đường, con số ấy quả là chênh lệch. Tuy nhiên, với những gì mà haiku đã và đang mang lại cho đời sống thơ ca của người Việt, chúng ta có quyền hi vọng về một tương lai bền vững cho haiku cũng như cho mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc Việt – Nhật

Tác giả : Lưu Đức Trung - Nguyễn Bích Nhã Trúc

Bình luận

Bài viết liên quan

Này hoa bỉ ngạn
Cảm xúc mùa vu lan: Nhớ mẹ ngày xưa...
Về lại ngõ xưa
Giữa đám cỏ hoang
Tuyết rơi đầu mùa

Video clip