Cái ngông của Lưu Trọng Lư

16:13 - 19/06/2022

Một góc nhìn khác về Lưu Trọng Lư qua bài viết của tác giả Mai Văn Hoan

Cái ngông của Lưu Trọng Lư

Lời Lưu Trọng Văn: Hôm nay ngày của Cha, cũng là sinh nhật của Cha. Cụ sinh ngày 19 tháng 6 năm 1911 tại làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Con rất thích bài viết này của nhà thơ Mai Văn Hoan, lột tả một vỉa...khác của thơ Cha, của con người Cha: Ngông. Cha đọc cho vui nha Cha ơi!

 

 

 CÁI NGÔNG CỦA LƯU TRỌNG LƯ

 

 Theo Từ điển Tiếng Việt thì “ngông” là những ý tưởng, lời nói, việc làm khác thường. Cũng cần phân biệt cái ngông của kẻ bất tài và cái ngông của người có tài. Cái ngông của kẻ bất tài chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ. Còn cái ngông của người thực tài thì góp phần tô đậm thêm những nét tính cách đặc biệt của họ. Đã có một số bài viết đề cập đến cái ngông của Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương, Tản Đà. Mới đây, khi tìm hiểu về Lưu Trọng Lư, tôi chợt nhận ra thi sĩ cũng có những ý tưởng, lời nói, việc làm hết sức khác thường chẳng thua gì các bậc tiền nhân.

Lưu Trọng Lư (1911– 1991) xuất thân trong một gia đình nhà nho ở Cao Lao Hạ (Hạ Trạch), thuộc huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Thân sinh nhà thơ từng làm quan thời nhà Nguyễn nhưng chán ghét triều đình nhu nhược, cụ đã cáo quan về quê mở trường dạy học, vui thú điền viên. Cái ngông của Lưu Trọng Lư có lẽ một phần được di truyền từ ông cụ. Chẳng thế mà khi đang học năm thứ ba ở trường Quốc học Huế - một ngôi trường khá nổi tiếng thời bấy giờ - cậu học trò Lưu Trọng Lư đã dám bỏ ngang để ra Hà Nội làm thơ, viết văn, viết báo, dạy tư, sống kiếp giang hồ nay đây mai đó.

Thú thực, lúc đầu tôi cứ hình dung Lưu Trọng Lư theo cách Hoài Thanh phác thảo: “Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết". Nhưng hóa ra không phải hoàn toàn như vậy. Thời Thơ Mới vừa manh nha, Lưu Trọng Lư đang là chàng trai mười chín, đôi mươi.

Trước mặt chàng là bức trường thành thơ cũ đã tồn tại hàng nghìn năm. Muốn đập phá bức trường thành kiên cố ấy nào khác gì Đông-ki-sốt đánh nhau với cối xay gió. Ấy thế mà chàng thư sinh “chân cò, tay nhện” Lưu Trọng Lư đã “tả xung hữu đột” quyết tâm đập phá bằng được cái thành trì kiên cố ấy. Thi sĩ viết thư ủng hộ Phan Khôi, tranh luận với Tản Đà, đăng đàn diễn thuyết đả phá thơ cũ, hì hục làm thơ mới gửi in khắp nơi với các bút danh khác nhau.

Chiến thắng của phong trào Thơ Mới, công đầu thuộc về Phan Khôi nhưng rõ ràng là Lưu Trọng Lư đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nếu không có chất ngông từ trong cốt cách, sao có thể dám làm cái chuyện động trời như thế! Chính vì chế diễu thơ cũ mà có một ông nghè đã đòi chém Lưu Trọng Lư. “Cũng may, ông nghè chúng ta không làm tể tướng nên họ Lưu vẫn làm thơ mới như thường” (Hoài Thanh).

Khi làm thơ có thể Lưu Trọng Lư “ngơ ngơ ngác ngác” nhưng khi tranh luận nhà thơ tỏ ra hết sức bản lĩnh, thông minh, sắc sảo. Những lời hùng biện của Lưu Trọng Lư vẫn còn vang vọng cho đến bây giờ: “Các cụ ta ưa những màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt… Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ…”.

Trong thơ, không ít lần Lưu Trọng Lư cũng bộc lộ cái ngông của mình. Chẳng hạn như hai câu thơ sau đây: Ta viết dăm câu vô nghĩa lí/ Người điên xem đến hiểu lòng ta (Tình điên). Ai lại đi “viết dăm câu vô nghĩa lí” lại để cho “người điên” xem và hiểu bao giờ! Tất nhiên, đó chỉ là một cách nói. Người điên chính là người tri âm tri kỷ với thi sĩ. Và đối với người tri âm tri kỷ thì dù có viết dăm câu hay mười câu vô nghĩa lí đi chăng nữa họ cũng vẫn hiểu nhau.

Ở hai câu kết trong bài Giang hồ còn ngông hơn nữa: Đêm nay hoạ có mình ta/ Đốt hương trầm cũ chờ ma dạo đàn. Chờ dạo đàn với ma, quả là chỉ có thi sĩ họ Lưu. Nếu Nguyễn Công Trứ: “Ngồi buồn mà trách ông xanh / Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười” (Vịnh cây thông) thì Lưu Trọng Lư cũng ngược đời không kém: Ngày một, ngày hai cách biệt nhau/ Chẳng được cùng em kê gối sầu/ Khóc chuyện thế gian cười ngặt nghẽo/ Cùng cười những chuyện thế gian đau (Một mùa đông).

Bài thơ thể hiện rõ nhất cái chất ngông của Lưu Trọng Lư chính là bài Thú đau thương (đã được Phạm Duy phổ nhạc và trở thành một nhạc phẩm khá nổi tiếng). Ngay cái tiêu đề Thú đau thương đã là ngông rồi! Đau thương mà lại “thú”? Người ta thường nói thú đọc sách, thú ăn chơi… Chẳng ai cho đau thương là một cái thú như Lưu Trọng Lư cả. Không những thế, Lưu Trọng Lư còn khuyên người yêu: Xin để gối nằm im chỗ cũ/ Hãy lịm người trong thú đau thương! Có nghĩa là hãy buông thả tất cả để đắm chìm trong đau thương, để thưởng thức mùi vị, cảm giác của đau thương. Khoa học đã chứng minh một số người có những sở thích rất khác thường. Lưu Trọng Lưu nằm trong số đó chăng?

Với Lưu Trọng Lư, không chỉ có “đau thương” mà “buồn” cũng là một cái “thú”. Trong bài Một mùa đông, thi sĩ viết: Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm. Chưa từng có ai nói “buồn say đắm” bao giờ. Người ta thường nói: yêu say đắm, say đắm người đẹp… Say đắm là trạng thái say mê, đắm đuối quá mức. Lưu Trọng Lư say đắm với nỗi buồn chẳng khác gì say đắm người đẹp, say đắm tình yêu.

Và cũng chính vì xem “buồn” là một cái “thú” nên mới có chuyện rất lạ đời: Những điệu huyền bay, lạc khắp thôn/ Từng nhà, đây đó hẹn nhau buồn (Điệu huyền). Người ta hẹn nhau đi chơi xuân, đi xem phim, tắm biển… chưa từng có ai hẹn nhau “buồn” cả. “Hẹn nhau “buồn” cho dù chỉ là một cách nói nhưng nó cũng xuất phát từ quan niệm khác thường của thi sĩ. Vì xem “buồn” là một cái “thú” nên Lưu Trọng Lư cứ muốn “say đắm” mãi với nỗi buồn: Hãy như chiếc sao băng băng mãi/ Để lòng buồn, buồn mãi không thôi (Một mùa đông). Có lẽ trên đời này chỉ có thi sĩ Lưu Trọng Lư mới có cái ý muốn lạ lùng như thế. Cũng vì vậy mà thi sĩ rất nhạy cảm với cái buồn.

Bài Thơ sầu rụng, thi sĩ viết tặng Hoài Thanh (người bạn đầu tiên đã đưa lại cho thi sĩ cái hương vị say nồng của cuộc đời và của văn chương), thể hiện đầy đủ nhất sự nhạy cảm đó: Vầng trăng từ độ lên ngôi/ Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ/ Để tóc vướng vần thơ sầu rụng/ Mái tóc buồn thơ cũng buồn theo. Thi sĩ rất sợ nỗi buồn tan biến: Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay/ Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông/ Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng/ Thời gian lặng rót một dòng buồn tênh. Nhìn thấy được thời gian qua mái tóc đã là sự lạ rồi. Lại còn thấy thời gian đang “rót một dòng buồn tênh” thì càng lạ hơn nữa. Với tôi, đây là một trong những câu thơ vào loại hay nhất của Lưu Trọng Lư.

Không chỉ “buồn”, “đau thương” mà “sầu” cũng là một cái “thú” của thi sĩ họ Lưu. Nhà thơ cho rằng: Thuyền yêu không ghé bến sầu/ Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng (Một mùa đông). Tình yêu mà không có sầu thì mất đi vẻ đẹp, mất đi sự thi vị. Vì thế, cái gối mà hai người yêu nhau vẫn thường kê, thi sĩ gọi là “gối sầu”: Ngày một, ngày hai cách biệt nhau/ Chẳng được cùng em kê gối sầu. Thi sĩ cũng rất nhạy cảm với cái sầu: Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng/ Mà sầu trong dạ đã mang mang (Một chút tình).

Thi sĩ gọi người yêu là “người em sầu mộng”: Em chỉ là người em gái thôi/ Người em sầu mộng của muôn đời. Với Lưu Trọng Lư màu sắc của sầu khá đẹp: Vài chàng trai trẻ sầu biêng biếc… Thi sĩ tin rằng cái vẻ đẹp sầu mộng ấy sẽ tồn tại vĩnh viễn với thời gian: Tình em như tuyết giăng đầu núi/ Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời (Một mùa đông).

Có lẽ vì xem “buồn”, “đau”, “sầu” là một cái “thú” nên khi “phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lưu”, chúng ta thấy thi sĩ buồn mà không bi lụy, đau mà không rên xiết, sầu mà không ảo não. Nhà phê bình Hoài Thanh nhận xét rất tinh rằng: “Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy”.

Thơ Lưu Trọng Lư thật thà, bộc trực như bản tính của thi sĩ, như khí chất của người miền Trung. Suy cho cùng, Lưu Trọng Lư cũng có cái lí của mình khi xem “buồn”, “đau”, “sầu” là một cái “thú”. Phải chăng nhờ những giây phút “lịm người trong thú đau thương” ấy mà thi sĩ đã viết được những vần thơ tuyệt diệu làm xúc động triệu triệu trái tim qua bao thế hệ? “Tuyệt vời là khúc thương tâm/ Biết bao tiếng nấc thành ngâm muôn đời” (Muy- xê).

Rõ ràng cái ngông đã góp phần quan trọng làm nên nét khác biệt của Lưu Trọng Lư cả ngoài đời lẫn trong thơ.

Nguồn bài viết: Facebook Lưu Trọng Văn

Bình luận

Bài viết liên quan

Ở quê gã…
Đâu rồi khói tết ngày xưa
Nhẩn nha ngồi nhớ tết xưa
Tản mạn về chuyện cây rơm
Ký ức Vực Sanh

Video clip