Chùm thơ của bác Nguyễn Văn Tri
07:40 - 20/04/2016
Đăng trong tập Hương Sắc Cao Lao, tập II, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2015
Nguyễn Văn Tri, sinh ngày: 27-7-1943 tại Hạ Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình, hiện là Phó Chủ tịch Hội CGC xã Hạ Trạch, Phó Chủ nhiệm CLB Thơ Hương sắc Cao Lao. Thơ in chung: Hương sắc Cao Lao: Tuyển chọn Tập 1, NXB Hội Nhà văn; Tuyển chọn Tập 2, NXB Thuận Hóa
ĐT: 0912512628
Suy ngẫm
Năm 1911 - Đại tướng ra đời
Năm Bác Hồ xuất dương tìm đường cứu nước
Sấm Trạng Trình hay trời sắp xếp
Mà sao có sự trùng hợp lạ thường!
Thế hệ chúng con suy ngẫm chưa tường
Nghĩ tâm linh - nghĩ người đã khuất
Nghĩ và chứng giám những điều có thật:
Bác Hồ xa quê, sinh ra Đại tướng Văn!
Cách nhau hơn hai mươi mùa xuân vẹn tròn
Ba mươi mốt năm trở về, vẫn tin người tuổi trẻ
Trao cho Đại tướng toàn quyền mệnh hệ (1)
Thành công rồi, Bác đi xa yên dạ yên lòng.
Sự thật làm chúng con nghĩ và mong
Càng nghĩ càng quý Người về tiên tổ
Lịch sử Việt Nam thịnh, suy, đã tỏ
Chắc đời này, thịnh mãi mãi Người ơi.
20-10-2013
(1) Mệnh hệ : Sứ mệnh hệ trọng.
Nơi ấy
(Tặng các em lớp 7 - Trường Xuân Trạch
Khóa I - 1967-1968)
Đã mấy mươi năm thầy không về “Nơi ấy”
Khúc câu ca: “Có lẽ nào anh đã quên em”
Nhớ chiều Trường Sơn, tím bầm kỷ niệm
Thổn thức hoài, ứa lệ khi nhìn lên!
Ôi! Đường đá chông chênh cuốc bộ 7-8 năm liền
Sao không nhớ, không thương các em yêu quý
Đời ưu tư, đong đầy tư lự
Phải làm ngơ, như chưa đến bao giờ!
Đêm đông trường hoài mộng, ngẩn ngơ
Tiếc cho số phận “không trọn tình vẹn nghĩa”
Chuyện riêng tư, cảm ơn các em cùng chia sẻ
Để nguôi dần những năm tháng “buồn, vui”.
Hè đến rồi các em lại gọi thầy
Chần chừ mãi đi hay từ chối
Khe Gát, Ngọn Rào, Vĩnh Sơn nào lạc lối?
Một phần cuộc đời, thầy đã neo lại nơi đây!
Kỷ niệm xưa ký ức vơi - đầy!
Thầy trở lại, dù rằng chưa muốn
Hôm nay, giữa khung trời gió lộng
Trên Động Thiên Đường, thầy trò bên nhau.
Cảm ơn em, cảm ơn “đồng chí, bạn bầu”
Đã cho thầy đến Động Thiên Đường “Tiên ở”
Ra về rồi lòng nặng lòng nhung nhớ.
Nhớ ai trẻ trung nay đã xế bóng chiều.
Chừ cụ ông, cụ bà, cháu nội, cháu ngoại
Nhớ đầu tóc xanh, nay bạc màu sương muối
Nhớ má phúng phính năm xưa
Nay gân guốc, đổi sắc hồng hào.
Chỉ còn những cặp mắt rất tươi, rất rạng rỡ năm nao
Cùng trí vững vàng, tâm hồn sáng và sắc
Nhớ mặt bằng mặt, lòng bằng lòng, tay xiết chặt
Và nghẹn ngào, nói ít hiểu nhau nhiều.
Thôi! Thầy chân thành cảm ơn các em yêu
Đã giúp thầy trở lại ngày xưa “Nơi ấy”.
Nét độc đáo
Làng tôi xưa văn vật
Nét độc đỏo nhất nhì
Điểm độc đáo đáng ghi:
Dãy nhà thờ các họ.
Khi ánh trăng sáng tỏ
Lúc ánh điện diệu kỳ
Đẹp như bức hoành phi
Xếp theo hàng ĐƯỜNG BẢN.
Làng chia làm 20 xóm
Xếp như kiểu đô thành
Cửa răm rắp hướngNam
Đây cũng là độc đáo.
Đình làng đất cao ráo
Ngoảnh mặt về Hoành Sơn
Soi mình dòng Linh Giang
Uy nghi và trang trọng.
Rồi về chuyện thờ phụng
Thì có một không hai
Cao Lao Hạ - Làng tôi
Thờ ông bà gian nhất(1)
Đi vào Nam ra Bắc
Thấy họ thờ giữa nhà (2)
Việc phụng sự Ông - Bà
Làng tôi thật đặc biệt.
Cái tôi yêu thích nhất
Là lễ tế Cồn Cui
Dù ai xa suốt đời
Vẫn nhớ nét độc đáo.
20-12-2011
(1): Là gian trên hết: nhà ngày xưa có 3 gian.
(2); Thờ giữa nhà: Các nơi khác hầu hết họ đều thờ gian giữa gọi là gian bảy.
Thương em
(Nhân ngày đến thắp hương cho Kiều học trũ cũ )
Mùa hè năm qua, em đến thăm thầy
Sao hôm nay, em chỉ nhìn không nói?
Đứng trước em, mà lòng đầy đau nhói
Hỡi em! Người học trò quý yêu thương.
Thầy nhớ em - Nhớ ngày học ở trường
Tính hiền hòa, hơi rụt rè, ít nói
Rồi chiến tranh: Bom gầm, đạn xối
Em lên đường làm thanh niên xung phong.
Đất nước thanh bình, em trở về ruộng đồng
Như bao bạn cùng trang cùng lứa
Cả đời em hết lòng thương con, thương vợ
Nhất là tháng ngày em chăm ốm cho Hoa (1).
Cứ tưởng rằng đời vất vảsẽ qua
Vợ khỏe lại và con trưởng thành từng bước
Ai ngờ đâu, cuộc đời đen bạc
Em ra đi, khi vợ em ốm liệt giường
Cảnh gia đình tan tác đau thương
Vợ mất chồng, con mất bố, đàn chim non rả cánh
Thầy đến nhà em, một trưa vắng lặng
Trời mùa hè mà lạnh hơn đông
Cảnh cô đơn, Hoa ốm không chồng
Con em nhỏ, chưa biết chào, biết đón.
Nhìn căn nhà! Than ôi! Thật đơn giản.
Thầy nghĩ rằng: Tiền của chắc chạy ốm cho Hoa
Thầy xót đau, mặc nước mắt tự chảy nhòa
Để hương hồn em, hiểu nỗi lòng thầy đau đớn.
Ờ! Thì đời âu cũng là số phận
Em hãy ngủ yên trong giấc ngủ ngàn thu
Ngủ đi em - ngủ mãi trong thơ thầy ru
Để bớt phần nhọc nhằn khi em sống.
Chia ly hương hồn em, vào một chiều cô quạnh
Thầy ra về mà cứ ngoái lại nhìn em
Người học trò - Người bạn –Kiều(2) yêu thương!
Mới hôm nào có ở nhà thầy, nay đã về tiên tổ.
Trưa 18-7-2013
(1); Hoa: Học trò, vợ Kiều.
(2); Kiều: Học trò
Lệ Sơn ơi
(Kỷ niệm 50 năm – Chiến thắng sụng Gianh (28-4-1965-28-4-2015)(1)
Đã lâu rồi, tôi trở về Lệ Sơn
Nơi chan chứa tràn đầy kỷ niệm
Nơi ghi đầy cảm xúc - Đầy âu yếm
Nơi: Ngày hai tám, tháng tư, năm sáu lăm
Đã 50 năm rồi - Tôi vẫn nhớ như in
Hải quân Quảng Bình - Trận đầu đánh Mỹ
Trên bầu trời - Một bầy quỷ dữ
Và dòng sông lửa - tàu chiến sĩ: Áo trắng, quần xanh
Thương ơi! Mặt trời đã lặn sau dãy Trường Sơn
Mà bom đạn Mỹ vẫn nổ
Và tàu Hải quân vẫn cháy!
Thương các anh! Chưa từng trải!...
Sức chưa cõn bằng...!
Tôi về Lệ Sơn - Sau bao năm ao ước
Thăm lại bến bờ, thăm lại anh chị nuôi
Tình cảm trào dâng - Xúc động bồi hồi
Chị mắng thương: “Tưởng chúng mày quên tao đó”
Gặp lại anh, chị, cùng gia thất thùy mị
Đón chúng tôi như đứa út đi xa
Xưa trẻ trung - Nay cụ ông - cụ bà
Bao kỷ niệm xưa - Tôi đưa về quá khứ
Tôi thật thà - Bộc bạch tâm sự
Cám ơn chị - Giúp bọn em củ sắn - củ khoai
Cảnh giáo sinh sư phạm ăn đói kéo dài
Húp nước canh vào cho căng da dễ khải.
Em nhớ nhất là thằng cháu Thái
Cái thằng cưng - Mỗi bận xuống hầm
Thì mặt cháu tái nhợt, môi cháu tím bầm
Em và anh Quế phải bồng nhảy lên
Mặc cho rốc két xối ào ào xuống sông trước mặt
Nhà mình chỉ cách dòng Nan tấc bước
Mà hôm nay em trở lại xa vờn
Bờ đã di dời - Sông đã đổi dạng cỏn con
Những dấu tích xưa - Khắc tim em - Không bao giờ đổi
Ngày chuyển trường - vòng vèo - Lệ Sơn - Ngọn Rào từ Đồng Hới
Xao xuyến chia tay anh - Đi hỏa tuyến, chiến trường
Ngắm hoài dòng sông hiền hòa - Uyển chuyển yêu thương
Nhớ những buổi em xuống tắm sông
Trông và ước ao anh mau về cùng chị
Nhớ những ngày Thái - Thương và bé Kỷ
Cởi trên vai chú Tri, dạo khắp quanh vườn
Nhớ vườn chanh chị nặng trĩu trái bông
Em hái nhiều và ăn nhiều vì quá đói!
Chuyện dài - Không - Em không kể nỗi
Chỉ biết mình đã sống ở nơi đây
Có sông, có nước và cả máu tràn đầy
Có anh chị đã giúp bọn em học hành thành đạt.
(1); Ngày 28-4-1965 Tàu Hải quõn của QĐND VN, chiến đấu vớimỏy bay Mỹ từ bến Lệ Sơn (Tuyên Hóa) đến Cảng Gianh, Quảng Bỡnh.