Lịch sử xã Hạ Trạch 1470 – 2015 (phần 8)

10:20 - 08/06/2020

Giới thiệu phần 8, cuốn “Lịch sử xã Hạ Trạch 1470 - 2015” do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2019

Lịch sử xã Hạ Trạch 1470 – 2015 (phần 8)

Tiếp theo...

  1. Làng Cao Lao Hạ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (3/1947 - 8/1954)

          Sau khi đánh chiếm Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, ngày 27/03/1947 Thực dân Pháp huy động lực lượng quân sự mạnh chia làm hai mũi, mỗi mũi 2 nghìn quân tiến đánh Quảng Bình. Một mũi tiến theo đường quốc lộ 1A tiến ra đánh Lệ Thủy, Quảng Ninh. Một mũi tiến theo đường biển đánh vào cửa biển Nhật Lệ và cửa Sông Gianh. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ 2 bùng nổ trên địa bàn Quảng Bình.

          Ngay từ giờ phút đầu cuộc kháng chiến nhân dân Quảng Bình nói chung, vùng Bắc Bố Trạch nói riêng (trong đó Làng Cao Lao Hạ) đâu đâu cũng hừng hực sục sôi khí thế chiến đấu chống thực dân Pháp. Các lực lượng dân quân du kích, tự vệ, sát cánh cùng các tổ chức cứu quốc và nhân dân đào hào đắp lũy, dàn thế trận dũng cảm chặn đánh địch hết sức quyết liệt gây nhiều khó khăn cho địch.

          Sáng 28/03/1947 Thực dân Pháp huy động lực lượng chia làm hai mũi Thủy bộ tiếp tục đánh vào huyện Bố Trạch. Một mũi tiến theo đường Thủy đánh vào cửa Sông Gianh Sông Lý Hòa, một mũi theo đường bộ đánh từ Đồng Hới ra Đại Trạch - Hoàn Lão.

          Sau gần hai ngày đêm đánh trả địch rất quyết liệt. Nhưng do chiến đấu trong một thế trận không cân sức, lực lượng du kích, tự vệ quân số ít, dàn mỏng vũ khí lại thô sơ chủ yếu là đại đao, mã tấu, sứng trường và lựu đạn, nên theo chủ trương của ủy ban kháng chiến, chúng ta vừa kìm chặn địch, vừa rút về hậu cứ bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài. Chiều ngày 29 tháng 3 năm 1947 hai cánh quân thủy bộ của Pháp đã chiếm được Hoàn Lão. Đến tối ngày 29 tháng 3 năm 1947, toàn bộ vùng đồng bằng ven biển từ Quảng Khê đến Phúc Lộc bị thực dân Pháp chiếm đóng. 

          Sau khi chiếm được Hoàn Lão và các làng dọc ven đường quốc lộ 1A, thực dân Pháp tập trung lực lượng mở nhiều cuộc hành quân, lùng sục vây bắt cán bộ, đảng viên, du kích tự vệ của ta đang ở lại trong vùng kiểm soát. Đồng thời để chuẩn bị cho việc chiếm đóng lâu dài, Thực dân Pháp bắt dân xây dựng đồn trại, cung cấp lương thực, thực phẩm; tuyển dụng bọn lý trưởng, cường hào, quan lại giai cấp bóc lột chế độ cũ... thành lập bộ máy tay sai ngụy quân, ngụy quyền. Ở vùng Bố Trạch, quân Pháp tập trung lực lượng, xây dựng đồn, bốt căn cứ vũng chắc ở Quảng Khê, mở nhiều đợt tấn công lên vùng Ba Đề, Cao Lao Hạ, Phú Kinh, Phú Mị.

          Thực hiện nghị quyết hội nghị ngày 31/03/1947 của cấp ủy Đảng, Ủy ban kháng chiến huyện Bố Trạch đã cử đồng chí Lưu Trọng Lạc quê Cao Lao Hạ ra trực tiếp chỉ đạo công tác kháng chiến ở các địa phương vùng phía Bắc huyện Bố Trạch.

          Trong tháng 4/1947 quân Pháp từ đồn Quảng Khê được pháo binh yểm trợ vượt sông Thanh Ba tấn công vào chiếm Làng Ba Đề và lấy nhà thờ Họ Phan đóng đồn chiếm giữ làng.

          Sau khi chiếm được làng Ba Đề, cuối tháng 4 năm 1947, quân Pháp tập trung lực lượng từ đồn Quảng Khê chia làm hai gọng kìm mở đợt càn quét thăm dò làng Cao Lao Hạ. Một mũi tấn công theo đường thủy bằng ca nô đổ bộ lên bến đò ông Dư càn vào làng;  mũi thứ 2 theo đường bộ từ đồn Ba Đề chia làm 2 mũi, theo đồi Vực Sanh đánh ra và theo đường Quan, có sự yểm trợ của đạn pháo ồ ạt tấn công vào làng Cao Lao Hạ.

          Rút kinh nghiệm từ trận chiến đấu của du kích và nhân dân Ba Đề, Ủy ban kháng chiến Làng Cao Lao Hạ đã chỉ đạo các tiểu đội du kích triển khai lực lượng chiến đấu ghìm quân địch, đồng thời bố trí lực lượng đưa các cụ già, em nhỏ tản cư vào núi tránh giặc. Cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp trên đất làng Cao Lao Hạ diễn ra hết sức quyết liệt. Nhưng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch cả về vũ khí và con người nên lực lượng dân quân du kích phải tạm thời rút lui vào rừng. Đến trưa cả 3 mũi càn quét của giặc đã tràn được vào làng, chúng đi đến đâu là đốt nhà, cướp của. Mặc dù đã thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống, nhưng một số vật nuôi lợn gà chưa kịp giấu, đã bị bọn lính Pháp, Comăngđô, lê dương bắn giết, cướp đi. Cả Làng Cao Lao Hạ hừng hực trong lửa đạn, các bờ tre cháy trụi, làng xóm tiêu điều. Chúng tập trung về đình làng Cao Lao Hạ, phát hiện có nhiều dây rừng và cọc thông chất đầy 5 gian đình, chúng đã tưới xăng đốt trụi 5 gian đình ngoài, chỉ còn lại 3 gian hậu tẩm (đình trong) và sau đó chúng tiếp tục đưa quân đi lùng sục, đốt phá nhà cửa ruộng vườn, bắt giết trâu bò phá công cụ sản xuất gây khó khăn cho việc khắc phục, sản xuất ổn định cuộc sống nhân dân sau này.

          Sau trận càn, các tổ chức quần chúng, lực lượng dân quân du kích, giúp đồng bào trở về quê, các cán bộ trong Ủy ban kháng chiến (UBKC) làng Cao Lao Hạ đã chỉ đạo các lực lượng dân quân du kích, các đoàn thể quần chúng cùng toàn thể nhân dân địa phương nhanh chóng ổn định tư tưởng, tránh hoang mang lo sợ, các gia đình có lực lượng dân quân du kích hổ trợ đã nhanh chóng, sửa chữa lại nhà cửa, sắp xếp lại nương vườn, tìm lại trâu, bò, lợn, gà loạn lạc, từng bước khôi phục sản xuất, ổn định đời sống.

          Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1947, thực dân Pháp tiếp tục mở nhiều trận càn vào vùng tự do và khu du kích của huyện Bố Trạch... "Toàn huyện xuất hiện 3 vùng chiến lược, đan xen nhau theo thế "cài răng lược," vùng bị địch tạm chiếm bao gồm các làng vùng đồng bằng ven biển và các thôn Sao Sa, Ba Đông, Sen Bàng, Vạn Lộc, Thọ Lộc, Ba Đề, Cao Lao Hạ, Bồ Khê, Thanh Ba… còn lại là vùng giáp danh và vùng tự do.

          Để đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu, huyện chủ trương thành lập Đại đội "Du kích thường trực" của huyện và củng cố các đội du kích ở các địa phương trực tiếp chiến đấu tại chổ. Đầu tháng 6 năm 1947 tại căn cứ Ồ Ồ (Cổ Giang) đại đội 4 du kích thường trực của huyện Bố Trạch được chính thức thành lập, do đồng chí Ất ở Hoàn Lão, huyện đội phó phục trách. Đại đội có ba trung đội, cán bộ chiến sĩ là những đội viên trung đội Biệt động đội và du kích các xã được huyện điều lên...

          Trang bị vũ khí của Đại đội "du kích thường trực" chủ yếu là đại đao, mã tấu, một số súng trường, lựu đạn thu được trong những trận chống càn của địch. Đại đội 4 sau khi thành lập, đã phân chia nhiều đơn vị nhỏ, phân tán về phối hợp với dân quân du kích các địa phương huấn luyện quân sự cho dân quân du kích, đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân tham gia các hoạt động kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

          Giữa lúc cuộc chiến đấu của quân và dân Bố Trạch nói chung, quân và dân Cao Lao Hạ nói riêng đang gặp những khó khăn, thử thách lớn, thì tháng 4/1947 hạn hán kéo dài, tiếp đó tháng 5 năm 1947, một trận lụt lớn xảy ra làm cho hàng ngàn héc ta ruộng lúa, ngô, khoai, sắn bị ngập nước, mất mùa hơn 50%, nhiều vùng dân cư, nhà cửa vườn tược tài sản... bị nước lũ cuốn trôi. Lương thực, thực phẩm của nhà nước và nhân dân cất giữ đã bị nươc lũ làm cho thối rửa, mục nát. Tình hình đó đã làm cho đời sống của cán bộ, bộ đội, du kích và nhân dân đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.

          Chống đói là nhiệm vụ cấp bách của Ủy ban kháng chiến huyện và các làng phải quan tâm, nhân dân Cao Lao Hạ đã đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, trồng rau màu chống đói, tiết kiệm lương thực, thực phẩm phục vụ kháng chiến. Các gia đình lập "hũ gạo kháng chiến", vận động mọi người giúp đỡ nhau trong cuộc sống với tinh thần "lá lành đùm lá rách" lá rách ít đùm lá rách nhiều, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, giúp nhau từng bát cơm, củ khoai, củ sắn, tấm chăn, manh áo... Từ những hành động nghĩa tình đó, đã tăng thêm tình nghĩa đồng bào, từng bước khắc phục khó khăn vượt qua nạn đói.

          Từ tháng 5/1947, địch thường xuyên đi đường thủy từ Quảng Khê bằng ca nô, hoặc đường bộ men theo sườn đồi Làng Ba Đề kéo lên Vực Sanh vào làng Cao Lao Hạ; bắn giết, bắt bớ, cướp trâu bò, lợn, gà, đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ gây bao đau thương, tang tóc, mất mát cho nhiều gia đình. Dân làng, ban ngày phải tránh né, trốn vào các vùng Truông Đất, Khe Hậu; giặc đi, dân về làng tiếp tục lao động sản xuất. Thực hiện chủ trương của huyện ủy và Ủy ban kháng chiến huyện cho dân tản  cư khỏi những vùng chiến sự thường xuyên bị địch càn quét khủng bố, Ủy ban kháng chiến làng Cao Lao Hạ đã tổ chức cho dân tản cư lên các khu vực Khương Hà, Cù Lạc…Sau này khi địch mở rộng vùng tạm chiếm ra toàn huyện Ủy ban kháng chiến làng Cao Lao Hạ tiếp tục tổ chức cho 1 số gia đình tản cư lên các vùng ở Tuyên Hóa, Minh Hóa…

          Để chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện tập trung thống nhất, tháng 6/1947 Liên khu ủy khu 4 chủ trương hợp nhất các đơn vị hành chính, thành lập các xã mới và hợp nhất Ủy ban kháng chiến với Ủy ban hành chính thành Ủy ban Kháng chiến hành chính. Thực hiện chủ trương chỉ đạo của Liên khu ủy, UB kháng chiến và Ủy ban hành chính huyện Bố Trạch được sát nhập thành Ủy ban kháng chiến hành chính huyện do ông Lưu Trọng Lạc (người làng Cao Lao Hạ) làm Chủ tịch, Uỷ ban kháng chiến hành chính các làng Bồ Khê, Ba Đề, Cao Lao Hạ, Cao Lao Thượng (vùng Bắc Bố Trạch) được sát nhập lại thành Ủy ban kháng chiến hành chính xã Bắc Trạch, do ông Phan Hoàn (làng Ba Đề) làm Chủ tịch; ông Nguyễn Sạng (làng Cao Lao Hạ) làm Phó Chủ tịch; Ông Lê Quang Khuê (Cao Lao Hạ) làm Xã đội trưởng. Ông Mai Xuân Cần (làng Quảng Khê) làm Trưởng Công an xã. Huyện Đội Bố Trạch đã cử biệt phái ông Nguyễn Đăng Thái (Cao Lao Hạ) tiểu đội phó Vệ Quốc đoàn về làm Đại đội trưởng dân quân tự vệ kiêm xã đội phó. Toàn xã Bắc Trạch được tổ chức 4 đại đội tự vệ ở mỗi thôn (làng) 1 đại đội thiếu 1 trung đội.

          Làng Cao Cao Hạ có 1 đại đội thiếu 1 trung đội, ông Nguyễn Hão Trung đội trưởng trung đội 1 sau đó là ông Trần Văn Nghĩa (Tuế) thay. Ông Nguyễn Khảng, Trung đội trưởng trung đội 2, mỗi trung đội có quân số 45 đội viên và 2 trinh sát viên. Vũ khí trang bị chủ yếu là vũ khí thô sơ tự tạo như đại đao, giáo mác, chỉ có một khẩu súng trường (kiểu Mút-cơ-tông của Pháp; phương tiện chỉ huy có trống Sấm là trống của Chùa làng) thanh la, mõ tre, còi sừng trâu (tù và). Làng, thôn quy định hiệu lệnh riêng cho từng loại phương tiện chỉ huy theo từng tình huống, từng phương án tác chiến bảo vệ nhân dân.

          Để chủ động phát hiện địch càn vào làng lực lượng dân quân làng Cao Lao Hạ tổ chức 12 vọng gác, canh giữ ngày đêm ở các hướng dự kiến địch có thể xuất hiện đột nhập vào làng. Các vọng gác ở các điểm: Chùa làng, Thành cổ, Cây đa xóm 1, Lòi Tuần, Động Dôn, Lều Cù, Chóp Cờ, Giếng Kiệt, Chùa Ba Đề, Lầu Ông Dư, Cây đa xóm 9, Cửa Đình làng.

          Vị trí chỉ huy của ban chỉ huy xã, thôn là: Đình làng Cao Lao Hạ. Làng tổ chức các bãi chông, chống quân nhảy dù ở các khu vực:

1, Bến đò trước Lầu Ông Dư (lúc này là một bãi rộng chưa có đê ngăn mặn);

2, Trong Thành Cao Lao;

3, Trước chùa Ba Đề;

4, Khu Giếng Hóc;

5, Dọc đường quan.

Chông được vót nhọn từ những cây tre già trong làng, cả làng nhà nhà vót chông, người người vót chông, chông dài, nhọn sắt, được cắm sâu dưới đất, dày đặc thành từng bãi, ở các khu vực, dự kiến địch có thể nhảy dù.

Trong làng được đào 2 tuyến giao thông hào theo trục đường Đông, Tây dài khoảng 2km. Một giao thông hào cặp ven đường sau làng, sát lũy tre từ chùa làng đến chùa Ba Đề. Ngoài ra còn đào thêm các đoạn giao thông hào ngắn, rải rác ở từng xóm, tùy theo địa hình, tạo thuận lợi việc đi lại, di chuyển trong thôn của dân làng để tránh phi pháo, đồng thời là hào chiến đấu của dân quân du kích. Từng hộ gia đình tự đào hầm bí mật ở những nơi kín đáo, bất ngờ thuận lợi cho việc ẩn nấp, trốn giặc khi cấp bách.

          Cuối tháng 6 năm 1947, làng tổ chức 1 đội thiếu niên mang tên "Chim Việt" gồm những thiếu niên gan dạ, lanh lợi, nhanh nhẹn làm nhiệm vụ trinh sát nắm tình hình địch, cung cấp tin tức cho dân quân du kích và làm nhiệm vụ liên lạc dẫn đường cho cán bộ, bộ đội đi lại trong địa bàn giúp cán bộ nhân dân trong làng đi sơ tán

          Ngày 15/7/1947 (ngày 27 tháng 5 năm Đinh Hợi) mới tờ mờ sáng, địch chia làm hai hướng tấn công vào làng Cao Lao Hạ một hướng từ Minh Lệ, Ba Đồn qua sông gianh tiến vào khu vực phía Bắc và phía Tây thành Cao Lao. Hướng thứ 2 có 2 cánh quân gồm:

          Cánh quân đi từ Quảng Khê kéo lên ba Đề theo sườn Bắc dãy núi Lê Đệ vào xóm Hói Đá Làng Cao Lao Hạ nhằm chặn đường rút lui và tản cư của du kích và nhân dân về phía Đông và phía Nam

          Cánh quân khác đi Ca nô từ Quảng Khê ngược dòng sông Gianh ầm ầm tiến vào cập bến ở bãi Lầu Ông Dư ở xóm 14.

          Các mũi tiến quân của địch ào ào sát khi tiến công hình thành thế bao vây gom dân vào các khu vực lõi cửa, cồn Ông vườn, Bàu mật, Lao quao...

          Tiếng Trống sấm, mỏ tre, tù và, thanh la vang lên khắp làng, báo động cho nhân dân sơ tán, cất dấu tài sản. Lực lượng dân quân du kích nhanh chóng triển khai trận địa chiến đấu.

          Cả làng chìm trong khói lửa của bom đạn, nhà cháy, các Dường tre bị cháy, giặc đi đến đâu là bắn giết, cướp bóc, tàn sát, cướp trâu, bò, gà, lợn... Cuộc càn của địch, gây tổn thất về người và tài sản cho người dân Cao Lao Hạ. Địch bắn, giết chết 52 nguời con quê hương, cướp của dân 83 con trâu, bò, đốt cháy trụi gần hết nhà của dân (từ xóm 1 đến xóm 12), chỉ còn lại vẻn vẹn 4 nhà ngói.

          Riêng tại cồn "Ông vườn" địch dàn hàng ngang giữa đồng, sục sạo các lùm lòi, cồn Sác, gặp người là chúng xả súng bắn chết tại chổ, gặp trâu, bò, lợn,gà là chúng bắt. Trong trận càn hôm đó tại cồn Ông vườn, chúng bắn chết tại chổ 37 người dân làng Cao Lao Hạ.

          Cuộc thảm sát ngày 27 tháng 5 năm Đinh Hợi được khắc ghi vào lịch sử làng, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. 52 mạng người, hàng trăm ngôi nhà bị thiêu cháy là thời khắc đau buồn và không thể quên của dân làng Cao Lao Hạ đối với thực dân Pháp.

          Trước khi địch càn quét, xã đội, thôn đội đã có kế hoạch tác chiến cho từng tổ, từng tiểu đội dân quân, du kích gài mìn, lưu đạn trên các hướng , đường, địch sẽ tiến quân như: Lầu Ông Dư, thành Cổ Bắc, chùa Ba Đề, Động Dôn, Lòi Tuần, Vực Sanh...Song so sánh thế và lực của địch quá mạnh, nên chúng vẫn liều mạng ồ ạt tiến công.

          Lần đầu tiên dân quân du kích của làng được vận dụng chiến thuật du kích để đánh giặc chống càn; Tránh chổ mạnh, đánh chổ yếu, lợi dụng sơ hở, chủ quan của địch để đánh địch, tổ du kích của ông Thái, ông Rào, ông Hảo, ông Đúc (Đúc Cai) ẩn nấp kín đáo, nổ súng vào đội hình địch, làm 02 tên địch phải đền mạng, số còn lại hoảng loạn bỏ chạy, ta thu lại số bò của dân chúng vừa bắt.

          Tại vực Sanh, tổ du kích của ông Lân, ông Soang với lưu đạn, đại đao phục kích chặn đánh địch, hai anh bị 48 lính Âu, Phi bao vây. Lợi dụng địa hình rừng núi, hai anh vừa đánh vừa rút, ra khỏi vòng vây an toàn.

          Một toán địch dàn hàng ngang đi giữa đồng, đến Mũi Bần, một tên đến sát gần nơi ẩn nấp của ông Lê Chiêu Dục, lợi dụng bụi cây che khuất ông Dục vùng dậy vật lộn với một tên dịch, nó hốt hoảng vất súng bỏ chạy, ông Dục thu một tiểu liên, đem về nộp cho xã.

          Sau trận càn lớn, địch vẫn thường xuyên tuần tiểu sục sạo, cướp tài sản của dân. Một lần địch sục sạo ở "Lòi Tuần", trên đường về dắt theo 5 con bò và 1 số gánh bông cướp của dân, đến xóm 14 gặp ông Mạnh Tâm và ông Dao, 2 ông ném lựu đạn vào bọn địch, chúng hốt hoảng bỏ chạy, ta lấy lại được 5 con bò và số gánh bông. Ông Lưu Trọng Uýnh - Bí thư chi bộ đã trực tiếp giao lại số bông và bò mà địch vừa mới cướp cho bà con.

          Ngày 7/9/1947 (23/7 năm Đinh Hợi) địch lại mở trận càn lớn vào làng Cao Lao Hạ từ 3 hướng: hướng từ Mục Tượng, Vạn Lộc theo đường Ba Trại đánh ra, hướng từ Cao Lao Thượng gồm 3 mũi đánh xuống, hướng từ Ba Đề đánh lên. Khi một toán giặc từ Hói Đá càn lên giếng Kiệt, gặp tổ ông Ninh, ông Luyến chặn đánh nhưng lực lượng địch đông hai ông vừa đánh vừa rút. Chúng đuổi theo và bắn chết 2 ông tại chân núi Lều Cù. Toán địch tiếp tục truy lùng lên Lều Cù, phát hiện có trạm gác, trong trạm gác có cái trống dùng để đánh báo động, chúng dùng lưỡi lê đâm thủng trống, sau đó kéo ra làng nhập với các toán càn quét giữa làng.

          Trong trận càn này địch đã bắn giết 98 người con của quê hương ở các khu vực “Cồn Bón”, “Bàu Dầu”, “Mụ Dịch”, “Cồn Xã”, “Múi Bần”, “Bàu Mật”, “Cồn Cui”. Tại đây trước khi địch chấm dứt cuộc càn, địch còn bắn một số người dân Minh Lệ mà chúng đã lùa đi theo làm bia đỡ đạn cho chúng.

          Ngày 15/9/1947 (mồng 1/8 năm Đinh Hợi) địch chiếm nhà thờ họ Lưu (xóm 10) và nhà thờ họ Lê Chiêu (xóm 9) đóng đồn. Địch bắt dân chặt tre rào xung quanh nhà thờ, chất đầy bao đựng cát làm hầm, làm lô cốt. Từ đây Cao Lao Hạ thuộc vùng địch tạm chiếm. Sau khi đóng Đồn Cao Lao Hạ, để tăng cường hệ thống phòng ngự, bảo vệ đồn và đàn áp phong trào kháng chiến ở địa phương, Thực dân Pháp cho lập Ban Hội tề, lập chính quyền tay sai do Lê Chiêu Đính làm Lý trưởng. Từ đó chúng thường xuyên tung tay sai chỉ điểm lùng bắt những người chúng nghi là cán bộ Việt Minh gây cho phong trào cách mạng ở địa phương gặp một số tổn thất, khó khăn. Đến cuối tháng 12/1947 địch rút toàn bộ quân ở Đồn Cao Lao Hạ sang đóng Đồn Thuận Bài ở Quảng Trạch.

          Từ ngày địch tạm chiếm quê hương, dân làng phải đối mặt với bao khó khăn thiếu thốn. Mặc cho địch dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo, khủng bố, bắn giết dã man nhưng dân làng Cao Lao Hạ vẫn một lòng đoàn kết cùng động viên giúp đỡ lẫn nhau khắc phục khó khăn thực hiện hoàn thành nhiệm vụ “đánh giặc, sản xuất lương thực, xây dựng và bảo vệ chính quyền các đoàn thể cách mạng bảo vệ nhân dân.

          Sau khi chính quyền các đoàn thể của xã Bắc Trạch đi vào hoạt động ổn định, ngày 23/7/1947 các chi bộ Tây Hồ (Cao Nguyên), Trung Hồ (Cao Lao Hạ), Nam Hồ (Ba Đề), Đông Hồ (Quảng Khê) hợp nhất lại thành một chi bộ là chi bộ Đảng xã Bắc Trạch, do đồng chí Lưu Trọng Uýnh (Cao Lao Hạ) làm Bí thư. Chi bộ các làng cũ được gọi là phân chi bộ Đảng.

          Tháng 9/1947 chi bộ Đảng xã Bắc Trạch tổ chức kết nạp đồng chí: Nguyễn Văn Ngọc, Phan Tín, Nguyễn Đăng Thái, Lê Quang Khê (Cao Lao Hạ) vào Đảng Lao động Việt Nam.

          Tháng 10/1947 địch tổ chức cướp lúa ở Đồng Cửa, tổ du kích gồm các ông Nguyên Đăng Thái, Nguyễn Xuân Hảo, ông Tùy (Tùy Đơi) phục kích ném lựu đạn, làm bọn địch hoảng loạn bỏ chạy, bảo vệ cho dân thu hoạch mùa an toàn.

          Bị thất bại liên tiếp trên các chiến trường, thực dân Pháp ráo riết thực hiện âm mưu chính trị rất thâm độc “Dùng người Việt đánh người Việt”. Chúng đưa Bảo Đại về lập Chính phủ bù nhìn tay sai Pháp, tăng cường phát triển Hội tề, lập Ngụy quân, phát triển các tổ chức mật thám, gián điệp chỉ điểm, lập các tổ chức quần chúng giã hiệu phục vụ cho âm mưu bình định vùng tạm chiếm. Trên địa bàn vùng Bắc Bố Trạch, thực dân Pháp tăng cường lực lượng quân sự và phương tiện hoạt động cho các cơ quan tình báo gián điệp, an ninh mật thám…tiến hành các cuộc lùng ráp, bao vây bắt bớ, khủng bố phong trào kháng chiến của nhân dân ta, âm mưu chia cắt chiến trường Bình Trị Thiên với vùng hậu phương Thanh Nghệ Tĩnh. Chúng ráo riết thực hiện chính sách bao vây kinh tế, liên tục cho quân đi càn quét, bắn phá bừa bãi không cho dân đi lao động sản xuất, thả cửa cho binh lính bắt bớ cướp phá mùa màng tài sản của dân(41).

          Ngày 06/2/1948 thực dân Pháp kéo quân đánh chiếm làng Cao Lao Hạ, chúng chiếm 3 nhà thờ họ của Họ Lưu Làng, Lưu Công, và Họ Lê Văn ở xóm 12 làm đồn trú(42). Quanh Đồn chúng dựng hàng rào dây thép gai, rào tre, đào hầm hào công sự vững chắc để bảo vệ, lực lượng quân trong đồn có 10 lính Pháp, 01 lính Ma Rốc và 10 tên bảo vệ quân người Việt. Cùng với việc lập đồn, chúng tăng tăng cường củng cố bộ máy chính quyền cai trị cơ sở do Lý Đính (Lê Chiêu Đính) làm Lý Trưởng, Nguyễn Tá làm Chánh ban, tổ chức lại dân vệ, Hội tề. Thực hiện gom dân, bắt dân rào làng, mỗi xóm chỉ để lại 2 cửa ra vào để dễ bề kiểm soát.

          Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cuộc kháng chiến ngày 06/1/1948 Đảng bộ tỉnh Quảng Bình tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng toàn tỉnh tại thôn Đại Hòa xã Đồng Hóa - huyện Tuyên Hóa đề ra Nghị quyết thực hiện nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới là:

          - Tiếp tục kiện toàn Mặt trận Việt Minh và các tổ chức đoàn thể cứu quốc, làm nòng cốt cho cuộc kháng chiến. Mở rộng Mặt trận Liên Việt để thu hút hết thảy lực lượng yêu nước nhằm củng cố khối đoàn kết toàn dân, chống âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp đặc biệt là đẩy mạnh công tác dân vận.

          - Kiên quyết đưa cán bộ về đồng bằng bám dân, kiên trì vận động quần chúng xây dựng cơ sở, chính quyền phải đi sát dân, do dân, vì dân mà phục vụ.

          - Đẩy mạnh xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, dân quân du kích vùng bị tạm chiếm, xây dựng làng chiến đấu…

(41) Lịch sử Đảng bộ huyện Bố Trạch tập 1 (1930 - 1954), XB năm 1995, trang 127 -128.

(42) Đây là lần thứ 2 thực dân Pháp đóng đồn tại Cao Lao Hạ. Lần 1 từ tháng 9/1947 đến tháng 12/1947. Lần 2 từ tháng 2/1948 đến tháng 4/1950.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

          Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và sự chỉ đạo trực tiếp của huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Bố Trạch, tháng 2/1948 Chi bộ Đảng, Ủy ban kháng chiến hành chính xã Bắc Trạch từ căn cứ Hang Nhím về làng bám dân, bám làng để lãnh đạo cuộc kháng chiến ở địa phương.

          Có sự lãnh đạo trực tiếp của Cấp ủy Đảng chính quyền, lực lượng dân quân du kích làng Cao Lao ngày càng được củng cố, phát triển cả về số lượng, tinh thần và ý chí chiến đấu, cán bộ Đảng viên, dân quân du kích bám dân, bám làng chủ động tổ chức chặn đánh các cuộc càn quét phá hoại của địch; tập kích các toán lính lẻ đi tuần để cướp súng và cảnh cáo răn đe bọn chúng. Đêm đêm bắn súng vào đồn địch, cài bom trước cửa đồn, dùng rơm, rã lá thông đốt phá hàng rào bao quanh đồn, quấy rối địch gây cho chúng hoang mang lo sợ, phải ém quân trong đồn không dám đi tuần.

          Du kích Đặng Danh và Lưu Bá Dao đã phục kích dùng dao mổ lợn, búa chém 2 tên lính Pháp bị thương nặng giữa ban ngày tại chợ Cao Lao Hạ. Tiếp sau đó, tổ du kích dùng rựa chém chết 1 tên lính Pháp khi chúng đi vào cướp ở chợ Cao Lao Hạ. Du kích Phan Tín khi biết tin giặc sẽ tổ chức trận càn vào làng, ông đã đặt quả lựu đạn đã rút chốt hờ vào trong sọt, bỏ ít “tờ rơi” phủ lên trên rồi lấy  rổ đặt lên để ngụy trang, địch lùng sục vào sọt, lựu đạn nổ làm một tên địch bị thương. Cả toán địch hốt hoảng tức tối hè nhau càn vào mái Chóp Cờ, tại đây chúng phát hiện Ông Hân đang trú ẩn và bắn chết ông. Các ông Lê Quang Liến, Nguyễn Huê, Lê Văn Biểu, Nguyễn Xuân Phẩm liên tục tổ chức gài bom trước cửa đồn địch và những nơi chúng thường đi lại ở xóm 12, xóm 13, xóm 14… ông Nguyễn Xuân Hảo cắm cờ đỏ sao vàng trên thửa ruộng trước cửa đồn địch cả tuần chúng không dám ra lấy.

          Vào một ngày tháng 9/1948 địch tổ chức cuộc càn cướp lúa của nhân dân ở bên Thầy Đồng (Kim Quy) ông Thái, ông Khuê du kích làng Cao Lao Hạ đã bắn súng quấy rối, địch hốt hoảng bỏ chạy, phá được âm mưu cướp phá của địch.

          Đặc biệt, du kích làng Cao Lao Hạ đã có sáng kiến dùng mẹo “ôm hè” cướp súng giặc giữa ban ngày gây tiếng vang cho phong trào kháng chiến toàn tỉnh. Hôm đó, khoảng 9h sáng ngày 20/7/1948, tổ du kích do ông Nguyễn Đăng Thái xã đội trưởng chỉ huy, khi đến khe Hậu dưới chân núi Chóp Cờ phát hiện 1 tốp lính ở Đồn Cao Lao Hạ, đang múc nước ở giếng Hóc. Hội ý chớp nhoáng kế hoạch cướp súng giặc, các ông cải trang là những người dân đi rừng về đến giếng nước rửa cho mát. Áp sát tốp lính, ông Thái hô “Ôm hè”, bất ngờ ông Thái, ông Cương, ông Trường xông tới khóa tay ôm bụng vật ngã ba tên lính xuống nền giếng cướp 3 khẩu súng, 3 chiếc mũ sắt của chúng rồi rút lui an toàn. Ba tên lính hoảng hốt chạy về đồn, vừa chạy vừa hô to “Việt minh, Việt minh” làm bọn lính trong đồn thêm lo sợ. Chiến công dùng mẹo “ôm hè” cướp súng giặc giữa ban ngày của du kích làng Cao Lao Hạ lan truyền khắp toàn tỉnh mở đầu cho phong trào tay không cướp súng giặc đánh giặc ở tỉnh Quảng Bình. Với chiến công xuất sắc này ông Nguyễn Đăng Thái được Chính phủ tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba.

          Bị bao vây liên tục bọn lính trong đồn Cao Lao Hạ thiếu ăn thiếu nước uống phải cầu cứu bọn địch ở Quảng Khê dùng ca nô chở lương thực, thực phẩm nước uống lên tiếp tế. Để chủ động đề phòng du kích tập kích, chúng pháo kích bắn dọn đường cho ca nô cập bến trước lầu Ông Dư. Đoán trước được âm mưu địch, tổ du kích trung đội 2 làng Cao Lao Hạ gồm ông Nguyễn Khạng, Nguyễn Bồi ông Luật, ông Uýnh, ông Đúc, ông Bông kiên trì, bám trận địa chờ ca nô địch cập bến mới đồng loạt nổ súng, bọn địch hoảng loạn phải quay ca nô chạy về lại Quảng Khê.

          Trước sức tấn công liên tục của dân quân du kích làng Cao Lao Hạ bọn địch ở đồn Cao Lao Hạ rất lo sợ, sỹ quan Pháp trong đồn phải viết thư xin chính quyền và du kích đừng đánh vào đồn, cho chúng được đi lấy nước ngọt ở giếng Hóc về ăn uống. Ở đồn Quảng Khê bọn lính cũng hoảng sợ nhiều lúc phải bỏ đồn xuống ngủ ở dưới tàu…

          Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của Cách mạng, tháng 8 năm 1948, Liên khu ủy khu 4 ra lệnh Tổng diệt tề lần thứ nhất và tiếp đó tháng 12/1948 Tỉnh ủy Quảng Bình ra Chỉ thị phát động phong trào “tích cực diệt tề” thủ tiêu các Hội tề, triệt hạ chính quyền bù nhìn tay sai địch ở các cấp.

          Chấp hành Chỉ thị và mệnh lệnh diệt tề của cấp trên, chi bộ Đảng, chính quyền xã Bắc Trạch chỉ đạo lực lượng dân quân du kích và nhân dân các làng Cao Lao Hạ, Cao Lao Thượng, Bồ Khê, Đặng Đề đẩy mạnh phong trào diệt tề trừ gian, chống địch càn quét khủng bố ở các địa phương đạt được những thành tích xuất sắc.

          Du kích xã Bắc Trạch gồm các ông Lê Văn Tri (Tri nậy), Lưu Bá Dao, ông La (Cao Lao Hạ), ông Di (Quảng Khê), ông Cận (Cao Lao Thượng) đã bí mật đột nhập vào nhà chém chết tên Tổng Truyền là tên tề gian ác ở Quảng Khê. Du kích làng Cao Lao Hạ gồm các ông Nghĩa (tức Tuế), ông Uýnh, ông Mẫn, ông Phúc lần lượt bắt trừng trị các tên Cai Hiệu, Giao Lệ, Đội Thể, Phó Trạm là những tên tề gian ác trong làng…Qua quá trình theo dõi, lực lượng du kích Cao Lao Hạ đã bắt cảnh cáo một số chị em phụ nữ hay lui tới giao tiếp với lính trong đồn địch, đồng thời giải tán Trại con gái ở sát đồn địch trước xóm 13, là nơi bọn gián điệp, chỉ điểm thường đi lại gặp gỡ trao đổi thông tin liên lạc.

          Những tên tề, ngụy gian ác có nhiều nợ máu với cách mạng và nhân dân trong vùng lần lượt bị đền tội. Tên Đội Huê đồn trưởng địch ở Tiên Lệ là một tên khét tiếng diệt Việt Minh và tên Xàng lính biệt kích ở đồn Quảng Khê nhiều lần dẫn địch về làng chỉ điểm bắt bớ cán bộ, du kích trong làng đã bị du kích làng Cao Lao Hạ phối hợp với tổ công tác đặc biệt của Công an huyện Bố Trạch bắt trừng trị thích đáng.

          Dân quân du kích xã đã phối hợp chặn bắt 12 tên tề ở Đồng Hới giả danh buôn bò đi qua địa bàn, diệt 1 tên, thu 2 khẩu súng ngắn và 1 số tiền (bạc Đông Dương) của chúng. Sau nhiều lần vây bắt không thành, năm 1949 được sự chỉ điểm trong nội bộ du kích Làng Cao Lao Hạ, bọn địch ở đồn Quảng Khê đưa quân về làng lùng bắt ông Nguyễn Văn Đinh du kích làng Cao Lao Hạ đưa về đồn Quảng Khê giam giữ. Tại đây chúng đã tra tấn dã man nhưng ông vẫn kiên quyết không khai, sau đó chúng chuyển ông vào xà lim Đồng Hới tiếp tục giam giữ tra tấn. Lợi dụng sơ hở của địch ông đã trốn thoát, địch huy động lực lượng ở đồn Quảng Khê về làng, lùng bắt ông nhưng ông đã tìm lên Cù Lạc gia nhập Bộ đội, huyện đội Bố Trạch. Hành vi chỉ điểm cho địch được tổ công tác đặc biệt Công an Bố Trạch phối hợp với du kích Làng Cao Lao Hạ điều tra xử lý nghiêm minh.

          Tiếp theo đó là các tên Sà, tên Hùng, tên Hiệu là những tên Việt gian phản động tay sai địch ở đồn Quảng Khê, đồn Cao Lao Hạ gây nhiều tội ác cho nhân dân trong vùng lần lượt bị du kích các làng Cao Lao Hạ, Bồ Khê, Ba Đề (xã Bắc Trạch) phối hợp trừng trị thích đáng.

          Để chủ động nắm tình hình địch ở đồn Cao Lao Hạ, các ông Lưu Bá Dao trưởng thôn, Lê Văn Lầu phó thôn bố trí ông Nguyễn Lương mở quán cắt tóc ở gần đồn Cao Lao Hạ và chọn nhà mẹ Nguyễn Thị Thiệp ở xóm 13 làm địa chỉ liên lạc giao nhận tin tức. Các ông Nguyễn Đàn, Lê Văn Lầu, Phan Văn Hưu, Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Luyến cán bộ du kích làng Cao Lao Hạ là những người được phép quan hệ giao tiếp với 2 nhân mối cơ sở của ta ở trong đồn địch là ông Chửng quê ở Quảng Ninh và ông Cầu quê ở Huế. Nhờ đó ta nắm được một số âm mưu thủ đoạn của địch để chủ động đối phó.

          Kết hợp giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, bằng công tác địch vận, các chị Hội viên Phụ nữ làng Cao Lao Hạ thường xuyên luân phiên nhau đêm đến tới sát hàng rào bao quanh đồn Cao Lao Hạ bắc loa kêu gọi, thuyết phục binh lính trong đồn địch hãy vì Tổ quốc vì nhân dân mình, đừng cầm súng bắn vào đồng bào, đừng làm bia đỡ đạn cho địch, hãy sớm trở về với cách mạng, chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Bằng những lời ca, câu thơ, hò vè đầy cảm xúc, các chị đã thuyết phục cảm hóa được một số binh lính bỏ hàng ngũ địch về nhà làm ăn lương thiện. Chị Nguyễn Thị Khâm, Lê Thị Minh đã thuyết phục vận động anh Trương Chương quê Trường Dục Quảng Ninh anh Bức lính trong đồn Cao Lao Hạ bỏ hàng ngũ địch mang súng ra giao nộp cho chính quyền v.v...

          Phong trào diệt tề trừ gian ở làng Cao Lao Hạ đã làm cho bọn địch trong đồn và bọn hương lý trong làng hết sức lo sợ, Lý Đính rồi đến Lý Kỷ là Lý trưởng làng Cao Lao Hạ phải lo chạy về đồn Quảng Khê trú ẩn để tránh sự trừng phạt của cách mạng và nhân dân làng Cao Lao Hạ.

          Cuối năm 1948 tại Hội nghị tổng kết phong trào chiến tranh du kích, diệt tề trừ gian toàn huyện Bố Trạch đã đánh giá: Nhất xã Trung Trạch, nhì xã Bắc Trạch. Ông Lê Quang Liến, du kích làng Cao Lao Hạ được thưởng 1 chiếc áo trấn thủ quà của Hội mẹ chiến sỹ Quân khu 4 tặng.

          Năm 1949 tình hình đã có những chuyển biến tích cực, những tên Việt gian phản động tay sai đắc lực cho thực dân Pháp bị trừng trị thích đáng. Phong trào cách mạng ở các địa phương ngày càng được củng cố phát triển, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Chính phủ với cuộc kháng chiến ngày càng nâng cao. Ngày 19/5/1949 Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ II được tổ chức tại Kim Bảng – Tuyên Hóa. Đại hội đã quyết định: Toàn tỉnh chuyển mạnh sang chủ động tiến công tiêu diệt địch và phát động cuộc chiến tranh toàn dân với khẩu hiệu: Rời chiến khu, thực hiện hạ sơn, về đồng bằng bám dân, bám làng hoạt động.

          Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh, Tỉnh ủy, UB kháng chiến hành chính, Mặt trận Việt minh tỉnh Quảng Bình quyết định lấy ngày 15/7/1949 phát động tuần lễ “Quảng Bình quật khởi”.

          Sau khi phong trào “ Quảng Bình quật khởi” được phát động, quân và dân trên các địa phương toàn tỉnh đồng loạt tổ chức tấn công địch. Mở màn cao trào Quảng Bình quật khởi là trận chiến đấu của quân và dân Lộc Long (Quảng Ninh) đánh bom chặn địch ở Đồn Xuân Dục càn vào làng làm tên Đồn trưởng và nhiều tên lính khác bị thương vong nặng. Sau trận mở màn, quân dân toàn tỉnh liên tiếp tổ chức những trận tấn công địch trên toàn tuyến, gây cho địch nhiều tổn thất nghiêm trọng. Một số đồn bốt chỉ tồn tại trên danh nghĩa, binh lính không dám ra khỏi đồn, một số người mang súng chạy về với cách mạng. Tại làng Cao Lao Hạ ngày 13  tháng 7 du kích Cao Lao Hạ tập kích đồn Cao Lao diệt 2 tên Pháp, bắn bị thương 6 tên. Tháng 11/1949 lực lượng du kích làng Cao Lao Hạ phối hợp với bộ đội chủ lực Trung đoàn 18 của tỉnh tổ chức đánh đồn Cao Lao Hạ. Song do sự hợp đồng chiến đấu chưa chặt chẽ không khớp kế hoạch đề ra nên bị lộ. Sáng sớm hôm sau, tên Cường đồn trưởng đã ra lệnh tra khảo tất cả binh lính trong đồn để truy tìm nội ứng của ta. Cuối cùng chúng bắt trói anh Chủng, anh Cầu là cơ sở của ta trong đồn Cao Lao Hạ vào cột cờ trước cửa nhà thờ họ Lưu Công và xả súng bắn chết 2 anh. Sau đó chúng bỏ xác các anh vào bao bố ra dìm xuống sông Gianh. Thương tiếc 2 anh, nhân dân Cao Lao Hạ bí mật lặn lội tìm xác các anh để mai táng, chôn cất nhưng đã bị nước cuốn trôi.

          Trong cao trào Quảng Bình quật khởi, ông Lê Chiêu Tín chiến sỹ trung đoàn 18 trong một trận chống càn tại Hoàn Lão không may ông bị địch bắt, mặc dù địch dùng mọi hình thức tra tấn anh vẫn kiên địch lập trường vững vàng không khai, cuối cùng chúng cắt đứt gân chân, buộc ông phải mang thương tật cả cuộc đời.

          Năm 1950 tình hình quốc tế và Đông Dương có những chuyển biến quan trọng, trên chiến trường cả nước địch bắt đầu sa sút, bị động. Phong trào cách mạng của quân và dân ta phát triển ở khắp mọi nơi. Ở vùng Bắc Bố Trạch phong trào kháng chiến của quân và dân địa phương đã gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Ngày 10/2/1950 du kích làng Cao Lao Hạ gồm ông Nguyễn Văn Sót, Nguyễn Văn Bồi đánh bom giết chết một tên lính bảo vệ quân từ đồn Quảng Khê tăng cường cho đồn Cao Lao Hạ.

          Ngày 28/2/1950 du kích làng Cao Lao Hạ phối hợp với bộ đội huyện Bố Trạch tổ chức bao vây đánh đồn Cao Lao Hạ…làm cho bọn lính trong đồn hết sức lo sợ, đến ngày 24/4//1950 buộc thực dân Pháp phải cho rút quân khỏi đồn Cao Lao Hạ.

          Từ tháng 5/1950 theo chỉ đạo của Chi bộ đảng và Ủy ban kháng chiến hành chính xã, lực lượng dân quân du kích làng Cao Lao Hạ đã bố trí một trung đội du kích làm nhiệm vụ tuần tra thường trực chiến đấu bảo vệ làng và một trung đội tác chiến tham gia cùng du kích Quảng Khê Bộ đội địa phương huyện thường xuyên bao vây khống chế cứ điểm Đồn Quảng Khê và trấn áp bọn tề ngụy phản động trên địa bàn, tổ chức phá hoại giao thông, cắt phá đường dây điện thoại của địch dọc tuyến QL1A từ Quảng Khê đến Lý Hòa…

 (43)Phân chi bộ Trung hồ (Cao Lao Hạ) giai đoạn này có 20 Đảng viên gồm Lưu Trọng Uýnh, Lưu Bá Dao, Lưu Hòe, Nguyễn Xuân Hảo, Trần Văn Tuế, Lê Lượng, Nguyễn Đăng Giám, Nguyễn Đăng Thái, Lưu Văn Hữu, Nguyễn Kình, Nguyễn Thùy, Lê Văn Lầu, Lê Chiêu Tuế, Lê Chiêu Đồng, Nguyễn Khạng, chị Luyến, chị Trữa, Hương Gia, chị Nguyễn Thị Ngẫu, chị Luyến (vợ anh Đại)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

          Đầu tháng 5/1950 nhằm ngày 02/4 năm Canh Dần, phân chi bộ Đảng Trung Hồ (Cao Lao Hạ) tổ chức Hội nghị quán triệt chủ trương của Đảng và tiến hành kiểm điểm phê bình, tự phê bình đảng viên phân chi bộ(43) . Về dự và chỉ đạo Hội nghị có đồng chí Trần Tán, Thường vụ huyện ủy, đồng chí Lưu Văn Đăng huyện ủy viên (quê Cao Lao Hạ). Tối đó một toán lính do tên Duật gián điệp chỉ điểm dẫn đường đi ca nô từ Đồn Quảng Khê lên Miếu Nẩy đổ bộ vào Thành cổ rồi tập kích vào khu vực xóm 1 đến xóm 3. Tại đây chúng ráo riết lùng sục bắn chết và bị thương 8 cán bộ, du kích, nhân dân trong làng trong đó có 2 cán bộ Công an huyện là ông Lánh, ông Đen;5 người du kích nhân dân làng Cao Lao Hạ là ông Thuần, ông Ước, ông Trị, ông Soái, ông Triển, ông Tuế bị thương. Đến 21h cùng ngày khi có bộ đội huyện Bố Trạch đến tiếp ứng, bọn địch hoảng loạn chạy qua Thành Cổ ra ca nô chạy về đồn.

          Trong cuộc tổng phá tề và phong trào Quảng Bình quật khởi, nhân dân Cao Lao Hạ không những lập được nhiều chiến công xuất sắc tiêu diệt địch mà còn đóng góp nhiều công sức của cải phục vụ cuộc kháng chiến. Nhân dân đã trực tiếp ủng hộ lực lượng quân sự huyện Bố Trạch hơn 4.700kg gạo, đóng thuế cho huyện hơn 40 tấn thóc. Nhiều gia đình nuôi bộ đội ăn, ở hàng chục ngày: gia đình ông Nguyễn Xang (Cửu Xang) nuôi một trung đội bộ đội ăn ở  cả tháng; gia đình ông Lê Văn Tịnh (Bộ Tịnh) nuôi ăn ở tiểu đội 9 người suốt thời gian chuẩn bị đánh đồn Cao Lao Hạ. gia đình mẹ Nguyễn Thị Tưu (Mệ Khóa mày) nuôi ăn ở cả tiểu đội bộ đội trong nhà hàng tuần…

          Tháng 8/1950 một trận lũ lịch sử quét qua làng Cao Lao Hạ, nước ngập đến nóc nhà làm hơn 200 ngôi nhà bị sập đổ, hàng chục tấn lương thực bị hư thối, hơn 100 con trâu, bò, lợn bị chết, bị nước cuốn trôi, hơn 80% diện tích vụ mùa  mất trắng hoàn toàn, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.

          Trước tình hình đó, Cấp ủy Đảng, Ủy ban kháng chiến hành chính xã Bắc Trạch và làng Cao Lao Hạ đã tập trung chỉ đạo nhân dân ra sức khắc phục hậu quả bão lụt, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tiếp nhận phân phối hàng cứu trợ của Trung ương và đồng bào Thanh Nghệ Tĩnh giúp nhân dân kịp thời giải quyết khó khăn ban đầu. Với tinh thần tự lực tự cường, tương thân tương ái nhường cơm sẻ áo, nhân dân làng Cao Lao Hạ đã đoàn kết tương trợ giúp nhau sửa sang dựng lại nhà cửa, chuồng trại, thu dọn ruộng vườn, nhường nhau bát gạo, rổ khoai, cân thóc giống kịp thời ổn định cuộc sống và tổ chức phát triển sản xuất, chăn nuôi.

          Với khí thế mới, tinh thần mới, tháng 9 và tháng 10 năm 1950 hơn 98% cử tri Cao Lao Hạ phấn khởi tin tưởng đi bầu cử Hội đồng nhân dân xã, Hội đồng nhân dân huyện Bố Trạch đúng thời gian và các quy định, tiêu chuẩn Đại biểu đề ra. Hệ thống chính quyền và các đoàn thể cách mạng từng bước được kiện toàn củng cố phát triển thêm một bước là cơ sở vững mạng để lãnh đạo nhân dân địa phương đoàn kết thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới.

          Trước những thắng lợi liên tiếp của quân và dân ta trên khắp các chiến trường cả nước, đẩy Pháp vào thế bị động lúng túng, tâm lý thất bại tràn lan trong binh lính Pháp và cả giới chức quân sự nội bộ nước Pháp, quân và dân cả nước ta đang có nhiều thuận lợi cơ bản mới để đẩy mạnh cuộc phản công giành được thắng lợi.

          Đầu năm 1951 Đảng Cộng sản Việt Nam triệu tập Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II. Đại hội đã quyết định đề ra nhiệm vụ: tích cực cầm cự, chuyển mạnh sang giai đoạn phản công trên tất cả các chiến trường tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

          Tháng 8/1951 Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ III được tổ chức. Đại hội đã đề ra những nhiệm vụ trọng tâm là:

          Phát triển chiến tranh du kích, củng cố bộ đội địa phương, tăng cường sự lãnh đạo ngành quân sự, công an. Kết hợp đấu tranh hợp pháp và bất hợp pháp một cách linh hoạt, chỉnh đốn chính quyền vùng sau lưng địch, đẩy mạnh phá tề phòng gian chống gián điệp, xây dựng mặt trận và các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, cải thiện dân sinh đẩy mạnh công tác giao thông vận tải.

          Sau khi có đường lối chỉ đạo kháng chiến của Đại hội Đảng toàn quốc và Đảng bộ tỉnh Quảng Bình, phong trào kháng chiến chống Pháp trên địa bàn toàn tỉnh đã có những bước chuyển biến mới trên tất cả các phương diện đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, xây dựng phát triển kinh tế kháng chiến.

          Trên địa bàn xã Bắc Trạch lực lượng dân quân du kích và nhân dân trong xã và các làng luôn đề cao cảnh giác chủ động chiến đấu chống địch bao vây càn quét; phá giao thông vận tải và thông tin liên lạc của địch, giữ vững vùng tự do, vùng du kích và tuyến giao thông liên lạc phía Bắc của huyện, đảm bảo an toàn thuận lợi cho việc đi lại hoạt động của cán bộ, bộ đội trên địa bàn.

          Đối với thực dân Pháp trong lúc lún sâu vào khủng hoảng, để cứu vãn tình thế, chúng tiến hành nhiều thủ đoạn chính trị hết sức thâm độc hòng lung lạc tinh thần kháng chiến của cán bộ, bộ đội và nhân dân ta: Chúng in truyền đơn xuyên tạc tình hình kháng chiến vùng tự do; ép các gia đình trong vùng bị tạm chiếm có người tham gia kháng chiến lên các vùng căn cứ kêu gọi người thân trở về. Tung gián điệp biệt kích vào vùng tự do để dò la tin tức, bắt cóc, ám sát cán bộ bộ đội ta gây tư tưởng hoang mang, lo sợ trong nhân dân.

          Đầu năm 1951 bọn địch ở đồn Quảng Khê cải trang làm người buông câu thả lưới trên sông Gianh, ban đêm đột nhập vào xóm 1 lùng bắt được các ông Cháu Chiểu, ông Lạp, ông Lường, ông Châu và bắn chết ông Lưu Đức Xán. Tiếp đó chúng qua xóm 2 bắt ông Phổi đánh đập buộc ông dẫn đường đi bắt ông Lê Văn Lầu (Thôn phó) nhưng ông Lầu đi vắng, chúng bắt ông Lê Văn Dực (em ông Lầu) đưa về đồn Quảng Khê tra tấn. Sau sự kiện này, Chi bộ Đảng, chính quyền  và lực lượng du kích thôn họp kiểm điểm sâu sắc về công tác phòng gian bảo mật, tuần tra canh gác …kịp thời chấn chỉnh tổ chức lực lượng, ý thức cảnh giác và tinh thần chiến đấu của cán bộ, Đảng viên, dân quân du kích nhằm củng cố lại niềm tin của quần chúng nhân dân địa phương. Do đó, một thời gian ngắn, một toán lính ở đồn Quảng Khê đi ca nô tập kích vào khu vực Lầu Ông Dư, các ông Nguyễn Khạng, ông Bông, ông Cận, ông Đúc (Đúc Cai) du kích Cao Lao hạ kịp thời phát hiện nổ súng chiến đấu buộc địch hoảng loạn lên ca nô chạy trốn về đồn Quảng Khê.

          Ngày 18/5/1952 trung đội du kích làng Cao Lao Hạ được huyện đội Bố Trạch bố trí tham gia phục vụ tiểu đoàn 22, trung đoàn 95 bao vây chiến đấu giải phóng hoàn toàn đồn Sen Bàng.

           Để chuẩn bị cho cuộc tấn công đánh đồn Ba Đồn, trong các ngày 29,30 tháng 5/1952 Trung đoàn 95 về ém quân tại rừng Sác thuộc Hói Hạ làng Cao Lao Hạ, nhân dân du kích trong làng vừa thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an toàn bí mật của bộ đội vừa phục vụ cơm nước, tiếp tế lương thực, thực phẩm cho bộ đội ăn nghỉ. Đêm 30/5 cuộc tấn công vào huyện lỵ Ba Đồn bắt đầu. Phối hợp với chiến trường chính Ba Đồn, du kích làng Cao Lao Hạ, Ba Đề (xã Bắc Trạch) phối hợp với bộ đội 363 Bố Trạch tổ chức chiến đấu bẻ gãy các đợt hành quân của địch từ đồn Quảng Khê lên Cao Lao Hạ sang ứng viện cho quân địch ở Ba Đồn. Tối ngày 31 tháng 5 năm 1952 Ba Đồn hoàn toàn giải phóng.

          Cuối năm 1952 đến đầu năm 1953 hàng trăm lượt dân quân du kích và nhân dân Cao Lao Hạ được huyện Bố Trạch, cấp ủy chính quyền địa phương huy động tham gia công tác vận tải phục vụ các đơn vị quân đội chiến đấu giải phóng các đồn địch ở Tây Trạch, Hoàn Lão.

          Từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 1 tháng 3 năm 1953 du kích Cao Lao Hạ phối hợp với du kích các làng Ba Đề, Quảng Khê, và bộ đội đơn vị 363 tổ chức chiến đấu đánh trả nhiều cuộc càn quét của địch lên làng Ba Đề, Cao Lao Hạ diệt 21 tên địch, phá hủy 02 xe quân sự của chúng, thu nhiều vũ khí, chiến lợi phẩm của địch, khơi dậy niềm tin tưởng lớn trong cán bộ và nhân dân.

          Mùa hè năm 1953 lực lượng du kích các làng Quảng Khê, Ba Đề, Cao Lao Hạ (xã Bắc Trạch) phối hợp với bộ đội địa phương liên tục tổ chức các hoạt động cắt phá đường dây thông tin liên lạc của địch, phá câu Khe Nước trên tuyến Quốc lộ 1A, bao vây tiêu diệt cứ điểm Đồn Quảng Khê gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.

          Bước sang Đông xuân năm 1953 - 1954 trung ương Đảng và Bộ tư lệnh giao cho Liên khu 4 phối hợp với nước bạn Lào mở chiến dịch Trung Lào nhằm tiêu hao binh lực địch, và kìm chân địch không cho chúng liên kết với chiến trường chính ở miền Bắc. Được Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính khu 4 giao nhiệm vụ, Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Bình triệu tập cuộc họp các ban, ngành, các huyện và Chỉ thị cho 3 huyện Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa tổ chức lực lượng tham gia phục vụ chiến dịch Trung Lào.

          Chấp hành Chỉ thị của cấp trên, cấp ủy Đảng, chính quyền xã Bắc Trạch đã chỉ đạo các làng Cao Lao Hạ, Quảng Khê, Ba Đề, Cao Nguyên thành lập các đoàn dân công với hơn 300 người tham gia phục vụ chiến dịch. Nhiều thanh niên trai tráng khỏe mạnh trong làng Cao Lao Hạ đã tình nguyện tòng quân vào bộ đội đi chiến đấu trên các chiến trường ở miền Trung và Trung Lào.  Lực lượng dân công và nhân dân địa phương đã phối hợp với các đơn vị bạn, vận chuyển hơn 4.000 tấn lương thực, thực phẩm ra Thanh Nghệ Tĩnh phục vụ chiến dịch.

          Ngày 13 tháng 3 năm 1954 Bộ đội ta nổ súng mở màn chiến dịch Điện Biện Phủ. Phối hợp với chiến trường chính, quân và dân Quảng Bình đồng loạt tấn công các cứ điểm đồn bốt địch trên toàn tuyến Quốc lộ 1A, trung tâm tỉnh lỵ, huyện lỵ…giành thắng lợi. Du kích xã Bắc Trạch (làng Cao Lao Hạ, Ba Đề, Quảng Khê) phối hợp với bộ đội chủ lực bao vây tiêu diệt các căn cứ quân sự của địch ở Khe Nước (phía Bắc Đèo Lý Hòa), ở Quảng Khê thắng lợi hoàn toàn. Ngày 07 tháng 5 năm 1954 Chiến dịch Điện Biên Phủ của quân và dân ta toàn thắng vang dậy khắp non sông, chấn động địa cầu. Vinh dự tự hào trong chiến dịch Giải phóng Điện Biên Phủ, làng Cao Lao Hạ có các chiến sỹ trực tiếp tham gia chiến đấu là ông Nguyễn Danh Lễ, ông Lê Văn Rào…

          Ngày 20 tháng 7 năm 1954 thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ ne vơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở 3 nước Đông Dương. Ngày 18/8/1954 những tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng cuốn xéo khỏi Đồng Hới. Quảng Bình hoàn toàn giải phóng chấm dứt sự xâm lược của thực dân Pháp trên đất Quảng Bình. Ngày 20/8/1954 Ủy ban quân chính thay mặt chính quyền dân chủ nhân dân ra mắt trước 3 vạn đồng bào đại diện cho hơn 40 vạn đồng bào Quảng Bình. Tiếp đó, ngày 02/9 các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đổ về thị xã Đồng Hới dự lễ mít tinh kỷ niệm ngày Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và chào mừng quê hương giải phóng. Tham gia dự và bảo vệ lễ mít tinh trọng thể này, làng Cao Lao Hạ vinh dự được cử 1 trung đội du kích gồm 30 người do ông Nguyễn Khắc Mại trung đội trưởng chỉ huy đại diện cho cán bộ và nhân dân Cao Lao Hạ.

          Trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, tháng 11/1953 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp đề ra cương lĩnh về ruộng đất đã chỉ rõ: Cần phải tiêu diệt chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ ruộng đất của nông dân, người cày có ruộng…Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Bình đã chỉ đạo các ngành liên quan, chính quyền các địa phương cơ sở thu hồi ruộng đất của Thực dân Pháp và bọn Việt gian tay sai chiếm giữ, ruộng vắng chủ giao cho các hộ nông dân sản xuất, vận động nhân dân đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức…Nhờ có chính sách giải quyết ruộng đất cho nông dân nên tình hình sản xuất nông nghiệp trong toàn tỉnh nói chung, làng Cao Lao Hạ nói riêng đã có những chuyển biến phát triển, đánh dấu những thành công trong việc thực hiện đường lối kháng chiến kiến quốc. Ở làng Cao Lao Hạ 1953 - 1954, cấp ủy Đảng, chính quyền đã quan tâm chỉ đạo cho người dân mở rộng khai hoang, phục hóa hàng trăm mẫu đất canh tác, đào đắp, nạo vét các tuyến kênh mương giữa đồng trước (Cửu khúc Long Khê), đồng sau Hói Biền, Hói Đuồi…phục vụ tưới tiêu cho các đồng lúa, hoa mùa.

          Cùng với sản xuất nông nghiệp các nghề phụ sản xuất trong làng cũng được đẩy mạnh phát triển từng bước đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của nhân dân địa phương và ủng hộ kháng chiến. Đời sống vật chất, tinh thần, sức dân được bồi dưỡng cải thiện, động viên được nhân tài vật lực, sức người sức của nhân dân Cao Lao Hạ phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi.

          Trải qua 9 năm tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược  nhân dân cả nước nói chung, làng Cao Lao Hạ nói riêng đã phải chịu nhiều hy sinh mất mát đau thương. Hàng trăm sinh mạng con người đã ngã xuống đổ máu trên mảnh đất quê hương, gần 100% lượt ngôi nhà bị đốt cháy thiêu trụi, hư hỏng nặng, hàng trăm con trâu bò bị cướp, bắn chết, hàng trăm hecta đất chịu hoang hóa. Nhưng với tinh thần: Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, quân và dân làng Cao Lao Hạ biến đau thương thành hành động cách mạng vượt lên mọi khó khăn gian khổ. Kiên cường, dũng cảm, bền bỉ, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược giải phóng quê hương. Tên tuổi của các du kích như ông Lê Văn Tri, Nguyễn Đăng Thái, Nguyễn Văn Đinh, Nguyễn Văn Sót, Lê Quang Liến, Lưu Trọng Uýnh, Nguyễn Khạng, Nguyễn Bồi, Đúc (Đúc Cai), Bông, Lê Chiêu Tín, Đặng Danh, Lưu Bá Dao, Phan Tín, Lưu Dương, Lưu Bá Ngữ…Gắn liền với những chiến công và sự hy sinh cống hiến máu xương để bảo vệ quê hương để lại danh tiếng cho con cháu mai sau.

          Trong niềm vui chiến thắng, nhân dân làng Cao Lao Hạ bùi ngùi xúc động cảm kích nhớ thương hàng trăm đồng bào, chiến sỹ dân quân du kích, bộ đội đã hiến dâng xương máu, ngã xuống trên mảnh đất quê hương vì sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp giành tự do, độc lập cho dân tộc, cho quê hương.

Còn nữa....

 

Bình luận

Bài viết liên quan

Bàn về tên xã mới khi sát nhập 2 xã Hạ Trạch và Mỹ Trạch
Khu dân cư Thôn 3 dự thi tuyến đường nông thôn mới
Mô hình nuôi tôm công nghệ cao
Những mẩu chuyện nhà nông
Làng Cao Lao Hạ quê mình

Video clip