Lời Ban biên tập: Bài thơ "Địa danh làng Hạ" của tác giả Lưu Trọng Tri được đăng trên caolaoha.com ngày 20 tháng 10 năm 2010, trước khi khai trương trang tin (xem tại đây http://caolaoha.com/?language=vi&nv=news&op=Viet-ve-Cao-Lao/Dia-danh-Lang-Ha-42). Mới đây, ngày 25 tháng 3 năm 2018, tác giả Lưu Trọng Tri đã gửi lại cho caolaoha.com bài thơ trên với nhiều bổ sung, chỉnh sửa.
Đây là một tác phẩm rất công phu, tác giả đã đưa toàn bộ các tên địa danh của làng ta vào trong một bài thơ lục bát, có vần có điệu rất trữ tình và dễ nhớ. Mỗi địa danh trong bài thơ, đặc biệt là những địa danh nay không còn nữa đã gợi lại cho nhiều thế hệ con em Cao Lao Hạ những kỷ niệm sâu lắng thuở nào
Chân thành cám ơn tác giả và xin trân trọng giới thiệu với bà con toàn văn bài thơ mới
Thuở xưa tiên tổ lập làng
Tục danh “Kẻ Hạ” tên làng Cao Lao
Năm sáu cải cách ngày nào
Lấy từ “Hạ Trạch” thay vào xã ta
Hai mươi lối xóm vào ra
Đường Quan, đường Bản gần xa đẹp lòng
Liên hương Hạ - Mỹ lưu thông
Kiệt, Eo, Ngói, Xã băng đồng vượt qua
Ruộng đồng bát ngát bao la
Đồng sâu, đồng cạn vừa xa vừa gần
Bàu Eo, Mũi Đớ, Mũi Bần
Chú Thanh, Chú Quỷ quây quần không xa
Bàu Mật, Bàu Chợ, Cây Đa
Bàu Vuông, Bàu Sác lại qua Ông Vườn
Hói Hai, Hói Đá, Hói Đun
Bàu Cừa, Bàu Gát, Cồn Vườn, Cồn Cui
Bàu Hào, Bàu Hốc sinh đôi
Bện, Hà, Lem Hẻm đôi nơi lượn vòng
Đồng Ran, Đồng Rú, Mua Đồng
Nha Hoa, Thủy Đảo xuyên vùng Rôộc sâu
Cửa Nam, Lòi Sắn, Bàu Cầu
Cửa Thành, Cửa Hội là đầu Bàu Trương
Thượng Làng, Phố Tỉnh, Khu Mương
Cầm Về, Đồng Cửa vấn vương Hậu Làng
Lòi Sim, Đồng Phố, Bàu Ngang
Thao Ôốc, Miếu Nậy, lại sang Mộc Bài
Mụ Che, Bác Lá, Đồng Đuồi
Hạ Đồng, Khu Vợt xa vời đông tây
Mụ Dịch, Mụ Quảng vui vầy
Bàu Go, Cồn Bón chịu đầy đắng cay
Long Khê cửu khúc đẹp thay
Ngàn năm ghi tạc công dày ông cha
Bến Dinh xây chợ quê nhà
Bàu Dầu, Cây Chứa, Hậu Hà đồng ta
Phà Gianh, Hói Hạ, Sác Hà
Cồn Soi, Trẹc Nôốc nhà nhà ấm no
Mụ Đội, Cồn Hác bến đò
Ngắm nhìn cảnh vật ao hồ ven đê
Miếu Voi, cống chợ cận kề
Lầu ông Dư đó chuyên nghề thuốc tây
Thành Lũy ai đắp, ai xây?
Hào sâu ai bới mà nay vẫn còn
Dạt dào trùng điệp núi non
Kỳ tích kháng chiến dấu son chưa mờ
Lòi Tuần họp chợ nắng mưa
Lòi Họ, Động Léc sớm trưa học hành
Trệt Đa, Cồn Cát lối canh
Lòi Nghè du kích các anh luyện rèn
Giếng Rú, giếng Mới thân quen
Giếng Khe, giếng Bậy đan xen giếng Cồn
Giếng xưa nay đã phai mòn
Nước ngon cảm giác chỉ còn giếng Mây
Giếng Hóc, giếng Kiệt đánh tây
Giếng Hung nước mát ngất ngây lạ lùng
Trước làng ba giếng dùng chung
Giữa làng ao Phôốc ung dung tháng ngày
Đình chùa miếu vũ ai hay
Những đa cổ thụ giờ đây đâu rồi?
Kỳ Rò giáp giới xa xôi
Dường Tre, Lò Ngói bồi hồi nhớ nhung
Cánh Diều cá lội vẫy vùng
Bây giờ đồng Bẩy lác lùng bờ ao
Cồn xã đường sá ra vào
Bàu Chìu, Đồng Nát xôn xao một thời
Cống làng, cống kiệt chơi vơi
Bắc vài tấm ván tách rời khó đi
Cố Tôn, Cố Hoán chức gì?
Tên hai ngôi mộ nhất nhì to cao
Cây đa, Nhà Dạ thuở nào?
Đứng đầu xóm Một đón chào khách qua
Nhắn người làng Hạ nơi xa
Chợ cũ xóm Bảy dân ta chém thù
Đôộng Nhôn, Đá Bạc, Liểu Cù
Hòn Trùa, Ba Trại, Chóp Cờ ai quên
Vực Sanh xưa đã có tên
Cửa Nghè, Hồ Chứa mới nên sau này
Đôộng Bằng, Mây Đắng khoanh tay
Truông Đất, Mái Bụt phía tây Dốc Oằn
Khe Liêu, Khe Mỏ, Trâm Trăn
Phôốc Láng, Thầy Bói giới ngăn xã mình
Hòn Am tiếp giáp Phú Kinh
Đôộng Kèn, Khe Nác tạo hình Cửa Truông
Chim Quy, Khe Hậu hai phương
Rẫy Tranh, Đôộng Cháy khói hương ông bà
Mô Cua, Xạ Tắc hơi xa
Khe Trù, Khe Cạn chẳng xa Khe Tràm
Rẫy bắp, rẫy ló anh tam
Trộ Mợng khái đón đành cam chịu lời
Mái Thao, Mái Thách thảnh thơi
Quanh năm hóng mát lưng trời thông reo
Đội Quang, Truông Kéo, Truông Trèo
Cắt cỏ, hái củi trèo đèo vượt qua
Ba Cồn, Rẫy, miếu Ông Già
Dựng xây làng mới an hòa đông vui
Yêu quê, yêu cảnh, yêu người
Yêu sông núi, yêu đất trời của ta
Cao Lao hai tiếng mặn mà
Địa linh nhân kiệt nở hoa muôn đời./.


