Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
(Ca dao)
Cây đa, giếng nước, sân đình từ bao đời từng gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của con người việt Nam. Không biết có nơi đâu trên đất nước này, đình làng lại trở thành nguồn đề tài phong phú, nguồn cảm hứng dồi dào để hàng chục tác giả cùng sáng tác cả trăm bài thơ như ở quê tôi.
Xa quê gần nửa thế kỷ, lại không có điều kiện, khả năng để đọc hết, để cảm nhận sâu sắc tất cả những sáng tác về đình. Nhưng đọc hai tập Hương sắc Cao Lao, Đình làng và những bài thơ đăng tải trên trang Web Caolao.com tôi không khỏi tự hào, xúc động.
Tự hào, xúc động bởi quê tôi, quê hương của nhà thơ Lưu Trọng Lư hôm nay vẫn có cả một đội ngũ những người làm thơ đông đảo và tài năng như thế. Họ là những cán bộ nghỉ hưu, những thầy giáo, sĩ quan quân đội, công an, doanh nhân, nông dân, công nhân, học sinh... từ khắp mọi miền đất nước, có người ở tận những phương trời xa tổ quốc mà lòng vẫn luôn đau đáu hướng về nơi Đất Mẹ.
Đọc gần trăm bài thơ của hơn bốn chục tác giả, cảm xúc bao trùm là tấm lòng thành kính biết ơn tiên tổ, lòng yêu thương gắn bó tự hào và luôn hướng về nơi cội nguồn. Mong mỏi giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp mà ông cha đã gây dựng tự bao đời.
Từ những cảm xúc chung đó, mỗi bài thơ là một nét khám phá riêng. Là tiếng lòng của từng tác giả trong từng hoàn cảnh cảm xúc cụ thể. Điều đó đã tạo nên sự phong phú đa dạng, sinh động cho những sáng tác thơ về đình làng.
Đọc hai tập thơ, người đọc – đặc biệt là thế hệ trẻ - như thấy lại hình ảnh ngôi đình từ thủa xa xưa. Hình ảnh ngôi đình mang đậm nét dấu ấn thời gian, đã trường tồn cùng bao sự thăm trầm của lịch sử quê hương, đất nước.
Không biết đình làng tôi có từ bao giờ. Từ những lời ca truyền miệng được ông Lê Quang Chủy – bậc cao niên của làng – nhớ và đọc lại, hình ảnh ngôi đình hiện lên thật cổ kính, khang trang:
Triều Minh Mạng triệu niên
Quan Thạng (thượng, to) cầm quyền
Cải giá Đền Trung
Làm cách bức lạ lùng
Cả châu này có một, cả huyện này có một.
Lời ca không chỉ nhắc lại thời gian xây đình (vào năm Minh Mạng nhị niên 1882), tự hào về ngôi đình làng mình không đâu có được. Lời ca còn miên tả rất cụ thể từ cấu trúc, đường nét, hoa văn, họa tiết của đình cũng thật chi li:
Cột đà nên cột, rường cũng nên rường
Chạm bốn cái khoảng lương
Chạm kèo quyền song đấu.
Các quan ra mẫu
Chạm cả tứ bi
Chạm con hạc chầu vua
Chạm một bầy chim chích...
Ngay từ thuở xa xưa, đình làng đã được ông cha kể lại với một niềm tự hào thành kính, bởi đình làng là nơi:
Đình làng hội tụ tinh hoa
Phụng thờ tiên tổ, ông bà có công
Lập làng khai khẩn ruộng đồng
Ơn người con cháu cầu mong, đáp đền
(Đình làng mang nặng nghĩa tình – Cảnh Giang)
Nhà thơ Lê Quang Nhân, người sĩ quan công an đã nói hộ cảm xúc của bao người dân làng Hạ. Từ trong ký ức tuổi thơ của mình, đình làng qua lời mẹ kể thật thành kính, linh thiêng:
Nghe mẹ kể ngày xưa
Đình làng mình thiêng lắm
Kẻ qua rồi người đến
Cầu lộc tài, công danh
Cầu vào Nam, ra Bắc
Ai cũng có phần mình
Đình làng Hạ oai linh
Chở che bao dòng tộc...
(Ký ức về đình – Lê Quang Nhân).
Đình làng không chỉ linh thiêng, linh ứng để bao người tôn thờ gửi gắm, cầu mong những điều thiện nguyện. Đình làng còn là nơi hội hợp, luận bàn những việc, sự kiện hệ trọng in đậm dấu tích những bước thăng trầm của lịch sử quê hương, dân tộc.
Đình làng tụ hội nghĩa quân
Thời Cần Vương phò vua giúp nước
(Đình làng Hạ - Phan Anh Trung)
Và cũng từ nơi đây dân làng đã họp bàn, tiễn đưa lớp lớp thanh niên lên đường cứu nước. Rồi cũng chính từ nơi đây bao lứa đôi hẹn hò, tiễn đưa thật lưu luyến nhớ thương:
Nhớ lại năm xưa ở chốn này
Dân làng bàn chuyện đánh giặc Tây
Em tặng khăn thêu người ra trận
Biết mấy yêu thương những tháng ngày.
(Lưu Hữu Tùng).
Thơ viết trăm bài cũng không nói hết được những tình cảm của dân làng đối với ngôi đình, nơi khơi nguồn cũng là nơi hội tụ của tình quê sâu nặng.
Nhưng rồi chiến tranh giặc giã, gió bụi thời gian và cả sự vô tình, ấu trĩ một thời của con người đã góp phần làm cho ngôi đình bị tàn phá. Có những lời thơ thật xót xa, nuối tiếc:
Trải bao năm tháng lâu dài
Chiến tranh, cải cách đã hai ba lần
Ngôi đình cứ thế mất dần
Không mái ngói, không đá xanh thuở nào.
(Đình làng – Nguyễn Xuân Trường).
Dấu tích còn lại chỉ là hai cột “Còn vẹn nguyên đứng hiên ngang trông tứ phía giữ làng” (Thần trụ giữ làng – Nguyễn Xuân Hòa). Mỗi lần đi qua ngước nhìn hai thần trụ giữ làng lòng không khỏi xót xa, ngậm ngùi để rồi cất lên bao lời ao ước:
Ước mơ con cháu quê mình
Bao giờ xây lại mái đình quê hương
(Đình làng tôi – Nguyễn Ngọc Lẫm).
Thế rồi thật mừng:
Biết bao ngày trăn trở
Biết bao cuộc luận bàn
Ý Đảng hợp lòng dân
Cùng chung tay góp sức
Hướng về cõi tâm linh
Xây dựng lại ngôi đình
Thỏa nỗi lòng mong ước
Còn gì vui hơn khi niềm khao khát đó thành hiện thực. Đình làng được khởi công xây dựng lại, cũng là lúc hàng loạt bài thơ thể hiện niềm vui sướng, hả hê:
Thỏa lòng nguyện ước quê mình
Công trình văn hóa tâm linh cội nguồn
(Linh Giang).
Công trình văn hóa tâm linh đó hiện lên với muôn mầu sắc, đường nét, vẻ đẹp khác nhau.
Tọa lạc trên đất cũ
Xây từ nền móng xưa
Đất linh thiêng hội tụ
Nơi dấu ấn ông cha
(Mái đình làng Hạ - Lê Chiêu Huân).
Hình ảnh ngôi đình qua cảm xúc của bác Lê Chiêu Nẫm thật đẹp đẽ, uy nghi.
Mặt đình hướng về phía Bắc
Ngắm Linh Giang hội nước ba nguồn
Tựa thế Cù Sơn tỏa bóng phía Nam
Giao hòa núi sông ơn Trời Đất,
Sừng sững uy nghiêm long chầu bốn mặt
Dáng đẹp tươi thanh thản hài hòa.
Đình làng xây xong, ngày khánh thành cũng là lúc dòng cảm xúc của các nhà thơ làng tôi trào dâng nhiều cung bậc. Có người vui sướng cứ ngỡ trong mơ:
Một thời tuổi trẻ đi xa
Hôm nay trở lại quê nhà vui sao
Tưởng mình đang lúc chiêm bao
Làng trên, xóm dưới cờ sao rực trời.
(Khánh thành đình làng – Lê Chiêu Chúc).
Không vui sao được khi “Từ nay con cháu xa gần, thăm quê viếng cả ngôi đình thân yêu” (Ngọc Lâm).
Cũng có người bùi ngùi thương nhớ khi kẻ mất, người còn. Nhìn đình hôm nay mà bao kỷ niệm xưa lại ùa về:
Nhìn mái đình tôi nhớ người đã khuất
Bạn đồng niên, đồng học của tôi
Dưới mái đình xưa tụ tập bao người
Cùng một lớp, một trường cùng vui vầy tâm sự
(Ngày khánh thành đình – Nguyễn Văn Tri).
Lại có người ngắm đình mà lòng suy tư, thao thức như nghe cả lòng đất thở:
Đất địa linh kế thừa hậu thế
Nảy nở, mở mang đời lại nối đời
Nghe xôn xao âm vang từ trong lòng đất
Từ ngôi đình làng Hạ quê tôi.
(Lòng đất thở - Phan Anh Trung).
Đặc biệt bằng sự sâu sắc, tinh tế của mình nhà thơ Lê Quang Quý còn hình dung và thấu hiểu được nỗi lòng không chỉ của con cháu hôm nay mà cả của các dấng tiền nhân thuở trước:
Hậu thế thỏa mong tròn đạo hiếu
Tiền hiền toại ước vẹn ân tình
(Lễ khánh thành đình làng).
Đọc gần trăm bài thơ viết về chủ đề đình làng, công bằng mà nói cho dù còn có nhiều bài “Na ná như thơ” (Phạm tiến Duật). Nhưng điều đáng trân trọng chính là tình cảm sâu nặng của các tác giả đối với quê hương. Chính điều đã đã tạo nên chất thơ đích thực. Bởi “thơ trước hết là tình”.
Cám ơn tập thể các nhà thơ quê ta, đã sáng tác nhiều bài thơ hay để hôm nay tôi được dịp đọc, tập hợp, viết đôi lời giới thiệu. Dẫu biết rằng còn nhiều hạn chế nhưng đó là tấm lòng thành kính của hậu thế luôn hướng về nơi cội nguồn, tiên tổ. Muốn được như nén hương thơm thắp lên trong ngày giỗ đình làng ngày 16 tháng 6 để tỏ lòng biết ơn các bậc tiền nhân đã có công khai làng, lập ấp cho chúng ta được thừa hưởng cuộc sống hôm nay, nguyện cùng nhau chung sức, đồng lòng xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Hải Dương, ngày 11 tháng 6 năm 2013
Người viết
Lưu Văn Quỳnh