Ngôn ngữ của người Cao Lao Hạ

19:54 - 28/10/2010

Ngày nay, các từ, câu cũ của người Cao Lao đang có xu hướng bị thay thế dần bời các từ phổ thông, do vậy việc ghi chép lại, bao gồm cả thu âm các từ cổ của người Cao Lao Hạ để lưu giữ cho các thế hệ sau là rất cần thiết. Mong bà con tiếp tục cập nhật thêm.

 

Lời ăn, tiếng nói của người làng Cao Lao Hạ có những từ hơi khác so với các nơi. Bên cạnh những ngôn từ chung dùng giống như các làng khác trong tỉnh Quảng Bình, người Cao Lao Hạ còn sử dụng rất nhiều từ, tập hợp từ riêng. Việc có nhiều từ riêng cùng với cách phát âm rất nặng tạo cho ngôn ngữ của người Cao Lao Hạ có một sắc thái riêng mà khi nói ra là người ta biết ngay đó là người Cao Lao Hạ. Ngày nay, các từ cũ đang có xu hướng bị thay thế dần bời các từ phổ thông, do vậy việc ghi chép lại, bao gồm cả thu âm các từ cổ của người Cao Lao Hạ để lưu giữ cho các thế hệ sau là rất cần thiết. Sau đây xin thống kê một số từ đặc biệt của địa phương có dịch nghĩa ra tiếng phổ thông sắp xếp theo thứ tự a, b, c mà ông Lê Văn Sơn[1]và Lưu Trọng Trị[2]đã dày công thu thập.

 

 

Từ Cao Lao Hạ

Từ phổ thông

Từ Cao Lao Hạ

 

Từ phổ thông

 

Chị

Lịp

Nón

Lèng

Lành

Ba láp

Bậy bạ

Lôông (cơn)

Trồng (cây)

Bọ (bọ, mạ)

Cha (cha, mẹ)

Lện

Sợ

Bâu (bâu áo)

Túi (túi áo)

Lưa

Còn

Bôông

Bông

Xeng mặt

Xanh mặt

Bù (cơn bù)

Bầu (cây bầu)

Thóc

Cá Bôống

Cá bống

Lộ mô

Ở đâu

Cấu

Gạo

Lòn cúi

Luồn cúi

Cẳng

Chân

Mạn

Mượn

Cấy chi

Cái gì

Mang (áo)

Mặc

Cấy dôông

Vợ chồng

Mần răng

Làm sao

Cạy (cạy trôốc)

Sưng (sưng đầu)

Mọi chầu

Thuở xưa

Cộ bạ

Đùi (người)

Mốôc

Mốc

Cại chắc

Cãi nhau

Mo

Gàu múc nước

Cậy

Gậy

Mờng

Mừng (vui mừng)

Cụ (con cụ)

Gấu (con gấu)

Mun

Tro

Cươi

Sân

Một chặp

Chốc nữa

Cúp trôốc

Cắt tóc

Ngài

Người

Chặp đạ

Lát nữa

Náng

Nướng

Chợn (chợn chắc)

Đùa (đùa nhau)

Náng cặng

Bàn chân

Chộ

Thấy

Neng

Nanh (răng)

Chầu tê

Ngày kia

Nậy

Lớn

Chọ họ

Ngồi xổm

Ót

Gáy

Chường

Giường

Con oong

Con ong

Chỉn (trợn chỉn)

Chỉ (sợi chỉ)

Ôông (mụ)

Ông (bà)

Chí

Chấy (con chấy)

Ôống chân

Ống chân

Chừ

Bây giờ

Ôông tra

Ông già

Cấy tê

Cái kia

Phợ hoang

Vỡ hoang

Cấy nớ

Cái đó

Phộ (phộ tay)

Vỗ (vỗ tay)

Côi

Trên

Răng rứa

Sao vậy

Cộ nu

Củ nâu

Rào

Sông

Coòng

Con cu rừng Sác

Rụng rại

Chậm rải

Côộc (Côộc cây)

Gốc (gốc cây)

Rạ (cơn rạ)

Rựa (cái rựa)

Cợi

Cưỡi

Roọng su

Ruộng sâu

Cơn ló

Cây lúa

Riệu

Rượu

Cơn rạ

Cái rựa

Rọt (rà)

Ruột (rà)

Cựa

Cửa

Ròi, mọi

Ruồi, muỗi

Cuốc

Guốc

Săng

Quan tài

Cái dấn

Cái võng

Su

Sâu

Dim

Nhâm

Seeng

Sanh chảo

Du (o du)

Dâu (cô dâu)

Sôống mụi

Cái mũi

Đưới

Dưới

Tắn

Rắn

Đa

Da

Toóc

Rạ

Đập chắc

Đánh nhau

Bổ (ngã)

Đam

Cua đồng

Teng

Tanh

Đàng sá

Đường sá

Tít (cơn tít)

Rết (con rết)

Đòi hay rượt

Đuổi

Tịa

dĩa

Đòn triêng

Đòn gánh

Thúi

Thối

Đơợng

Đựng

Thúi néc

Hôi nách

Đôồng (ló)

 Đồng (lúa)

Trù

Trầu

Đứng chặng trựa

Đứng ở giữa

Théc

Ngủ

ẻ, ẻ đấy

Ỉa, ỉa đái

Thốt (nhà)

Dột (nhà)

Eng (iêm)

Anh (em)

Trằm trồ

Kể chuyện

Êếc

Ếch

Trôốc cúi

Đầu gối (người)

Dà cáy

Gà gáy

Trấy

Quả

Giại mòi

Vải thô

Xeng

Xanh

Giác

Nhác (lười)

Tra

Trần (rầm nhà)

Giạ đò

Giả vờ

Tráp noóc

Lợp nóc mái nhà

Giui giẹ

Vui vẻ

Tra (mệ tra)

Già (bà già)

Hư ăn

Ăn tham

Trôốc

Đầu

Hun hít

Hôn hít

Trâu rọm

Sâu róm

Hớng nác

Hứng nước

Tréc (đất)

Trách (làm bằng đất)

Kế

Ghế

Trù

Trầu

Khái

Cọp, hổ

Trự

Chữ

Kháp

Gặp

Trựa

Giữa

Khớn

Chừa (chừa chưa)

Troọi

Cốc (đầu)

Khun

Khôn

Túi

Tối

Lạ

Lửa

U – e

Nhiều lắm

Lại

Lưỡi

Út

Em

Lái

Lưới (chài lưới)

Áo trẻ em

 

Đặc biệt ngữ âm của người Cao Lao Hạ thì rất khác, cho nên, khi nghe tiếng nói của người Cao Lao Hạ, người làng khác biết ngay đó là người Cao Lao Hạ. Thông thường người Cao Lao Hạ nói dấu hỏi (?) thành dấu nặng (.) và hạ thấp âm tiết. Một số thổ âm tuy có khác với đôi vùng, nhưng không nhiều, chỉ riêng ngữ âm là đặc biệt Cao Lao. Có thể khái quát rằng ngữ âm Cao Lao Hạ toàn là hạ thấp.

 

Tiếng Cao Lao Hạ có những đặc biệt địa phương như:

 

– Đa số là sử dụng dấu nặng (.) thay cho dấu hỏi (?), ngã (~). Ví dụ: Cửa sổ nói là Cựa sộ

– Phụ âm đầu “tr” thành “trl”. Ví dụ con trâu = con trlâu; cây tre = cây trle; ăn trộm = ăn trlộm; một trăm = một trlăm v.v..

–Phụ âm “nh” thành “d” hặc “gi”. Ví dụ như: Cái nhà; cái dà; nhờ cậy: dờ cậy; nhiều ít: diều ít; con nhện: con dện v.v.v…

–Nguyên âm ă ghép với chữ m = ăm, khi phát âm thành am ví dụ: năm thì đọc thành nam, mắm thì đọc thành mám v.v.

 

Một số câu thành ngữ của Cao Lao Hạ hiện nay ít dùng, nhưng khi dùng tạo ra một sự ấm áp, vui vẻ, rất riêng có của người Cao Lao Hạ. Xin đơn cử một số câu như sau do bà Nguyễn Thị Tuần[3]sưu tầm :

 

 

Mắc lậy thề…

Một thán từ, trước khi bắt đầu kể một vấn đề gì đó

Lạo lạo ua..a độc ẹ

Một câu gọi con gái trong tâm trạng hơi tức giận

Cấy dôông đập chắc trựa cươi

Vợ chồng đánh nhau giữa sân

Cạ mựt mạ cá trlàu

Có một con cá tràu (xộp) lớn

Cạ mựt đực cá cáy

Có một con cá chép to

Hại đạ kẹ lọi cặng

Từ từ kẻ gãy chân

Tâu trọi mựt cấy trựa trôốc

Tau (tôi) cốc một cái giữa đầu

Kẻ Hạ hà rua/ Ki đồ hà rua

Kẻ hạ nói theo (làm theo)/chỉ người bắt chước

Kè bò đi thả

Dắt bò cho di ăn cỏ

Cắm nhau như rạm

Chỉ anh em trong nhà hay cãi lộn nhau

Dùng dăng như trâu chậm chạc mũi

Sự việc để kéo dài, không giải quyết ngay

Ăn chuối lôông đến chuối lộ.

Nói người nào đó ăn lâu

Kẹ lái mần đầu kẹ câu hoọc dọi

Nhìn người lớn làm trước

Rứa mi ưng nhôông/cấy chưa?

Thế mày đã thích lấy chồng/lấy vợ chưa?

 

Do có đặc thù riêng về giọng nói, nên không biết tự bao giờ dân gian lưu truyền một bài thơ vui về giọng Hạ Trạch. Bài thơ có tên là “trêu cô hàng nước” như sau:

 

Trêu Cô Hàng Nứơc[4]

 

Bãn hạng nay cô đạ mấy tuồi?
Nướccô còn nõng hay đạ nguồi?
Lụng lặng trên treo dăm nắm nẹm,
Lơ thơ dướimóc một buồng chuồi.
Bán dạn bán dày đều xoa mợ,
Khoai ngựa khoai lang cụng chấm muồi.
Ăn uộng xong rồi tiền chưađụ,
Biệt nhau cho chịu một vài buồi.

 

 

Tạm dịch theo tiếng phổ thông:

 

Bán hàng nay cô đã mấy tuổi?
Nướccô còn nóng hay đã nguội?
Lũng lẳng trên treo dăm nắm nem,
Lơ thơ dướimóc một buồng chuối.
Bánh dán bánh dày đều xoa mỡ.
Khoai ngứa khoai lang cũng chấm muối,
Ăn uống xong rồi tiền chưa đủ,
Biết nhau cho chịu một vài buổi.

 



[1]Lê Văn Sơn: Địa chí Cao Lao Hạ, NXB Thuận Hóa, năm 2006, trang 145-147

[2]Lưu Trọng Tri: Ông Lưu Trọng Tri, cán bộ hưu trí tại Hạ Trạch đã gủi  300 từ địa phương gửi cho calaoha.com

[3]Bà Nguyễn Thị Tuần, cán bộ hưu trí ở Hà Nội, là vợ của ông Lưu Đức Hồng.

[4]Không rõ tác giả. Thu thập trên mạng internet. 

Tác giả : Lưu Đức Hải

Bình luận

Bài viết liên quan

Ao - Phôốc làng Cao Lao Hạ
Đôi câu đối có sự trùng lặp kỳ diệu
Địa chí làng Cao Lao Hạ - đôi điều góp ý bổ sung
Thơ ca, hò hát dân gian
Hò ru con

Video clip