Tác giả Lê Minh Thắng (ảnh facebook cá nhân)
Lời ban biên tập: Đến nay, Lê Minh Thắng đã có 5 tập thơ do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành: Hai bốn chữ cái (2017), Cánh đồng mặt trời (2019), Khúc biến tấu giao mùa (2020), Thế giới những vì sao (2022), Ánh sáng đổi ngôi (2024). Caolaoha.com đã giới thiệu từng tập thơ và trích đăng nhiều bài của anh trong các tập thơ đó. Thơ của Lê Minh Thắng rất riêng, đầy tính triết lý và tư duy. Anh hiện đang sống ở Đồng Hới, bạn đọc đồng cảm với thơ của anh có thể trực tiếp liên hệ với anh.
THƠ LÊ MINH THẮNG VÀ SỰ THỂ HIỆN CÁI KHÁC
Lê Minh Thắng là nhà thơ luôn có sự kiếm tìm và đổi mới tư duy nghệ thuật theo từng hành trình sáng tạo của riêng mình. Đó là điều không phải ai cũng ý thức và thể hiện một cách hiệu quả như mong muốn. Từ tập thơ đầu tiên Hai bốn chữ cái (2017) đến tập thơ lần này Ánh sáng đổi ngôi (2024), quả là một sự thay đổi đầy bất ngờ của Lê Minh Thắng. Trên nền tảng thi pháp sở trường và cái nhìn nghệ thuật luôn hướng về chính mình và sau đó là hướng về cuộc đời trong muôn vàn biến động, anh không ngừng thao thức để đi tìm cái Mới, cái Khác cho nghệ thuật thơ. Cái nhìn nghệ thuật luôn gắn với cảm thức hiện sinh đã làm cho chất thơ và hồn thơ Lê Minh Thắng không ngừng vận động và biến đổi, tạo thành cái tôi đang tư duy một cách trữ tình, hiện thực nhưng cũng đầy tâm linh, huyền ảo và lãng mạn.
Tư duy hình và tư duy ý trong thơ Lê Minh Thắng luôn gắn kết và hòa quyện thông qua hình tượng và ngôn từ cũng luôn đa thanh và ảo ẩn. Vì vậy, người đọc khó nhận ra tức thì/ trực tiếp ý tưởng và nội dung, ý nghĩa mà anh cần thông điệp. Phải đọc và lần tìm bên trong, bên sâu của ngôn ngữ và hình tượng mới có thể hiểu được tư tưởng chính của khổ thơ, bài thơ.
Tôi muốn chứng minh nhận định trên bằng bài thơ Ánh sáng đổi ngôi - bài thơ chọn làm tiêu đề cho cả tập thơ. Ánh sáng là đối tượng được nhìn thấy/ khả kiến trong không gian bằng mắt thường của con người, nhưng nó có tính chất đặc biệt trong những chuyển động bất thường. Nó có tốc độ rất nhanh trong mọi điều kiện thời tiết và thời khắc, nhưng bằng cái nhìn thi ca, Lê Minh Thắng đã nhìn ánh sáng một cách biến ảo và có phần bất ngờ trong nhận thức của riêng anh:
vệt sáng đứt quãng động tình
có thể nào sự nhầm lẫn
ngọn đuốc thiên nhiên hồi như xa xôi
kỳ vọng đắm chìm giấc mơ niên đại
kiếp người đê mê phiêu dạt dòng đời
con đường từng dấu chấm bất chợt
(Ánh sáng đổi ngôi)
Rồi nhà thơ lại đặt ánh sáng bên những đối tượng và liên hệ khác nhau để thấy ánh sáng không chỉ là nó mà ánh sáng còn là những gì cao hơn/ khác hơn chính nó để hiện hữu những sinh vật/ sinh thể trên trần gian. Nhiều lúc nó mang thuộc tính người để đánh thức những gì đồng nghĩa với sự sống:
Bầu trời hiện hữu những vì sao
dòng sông trăng trôi về biển cạn
trái đất ngân lên điệp khúc tình yêu
ánh sáng tài năng thưa thớt trên mặt nước
ánh sáng tài trí khuất dần phía chân đồi
sự phát tán phản quang
hoang dã mọc lên đen trắng
biến cố thực hư
phép di truyền và tiến hóa
người đi trong mơ hay những bước đường
mai sau
(Ánh sáng đổi ngôi)
Và nhờ thế, nhà thơ hiểu được nỗi niềm ánh sáng để hiểu được nỗi niềm nhân thế và hiểu cả những đối tượng tồn tại, chuyển động trên mặt đất này đều hiện hữu và được nhận biết thông qua ánh sáng đổi ngôi:
Nỗi niềm ánh sáng
đám mây tàn dư sao còn bận tâm
anh bàng hoàng vẩy theo chiếc lá đơn độc
một ngày sẽ rời cây
linh thiêng và yên giấc những lâu đài
sa mạc trường tồn cát trắng
ngọn đuốc thiên niên mọc lên
dòng suối nhân sinh
vốc một ngụm mát lành trên đôi tay
sự chuyển động của nước
anh nhận biết sớm chiều
ánh sáng đổi ngôi.
(Ánh sáng đổi ngôi)
Tư duy nghệ thuật thơ Lê Minh Thắng là tư duy thực chứng vòng tròn và va chạm, sinh thành theo logic đặc trưng như thế. Đó chính là cơ sở căn nền để tôi lần hiểu và cảm thức tập thơ Ánh sáng đổi ngôi này của anh. Cũng cần nói thêm rằng kiểu tư duy này đem lại sự khó khăn trong tiếp nhận của người đọc, kể cả người đọc cao cấp/ người đọc đồng sáng tạo. Ngôn từ - hình tượng - tư tưởng làm thành cái nhìn nghệ thuật và chất thơ riêng của Lê Minh Thắng lại chịu quy định bởi cái tôi đa cực, cái tôi đang cảm xúc và đang tư duy giàu biến ảo nên càng phức hợp và đa chiều, khó nhận thức và thấu hiểu theo logic thông thường. Thơ Lê Minh Thắng đa nghĩa và đa cách hiểu chính vì lẽ đó. Mỗi chủ thể tiếp nhận có cách hiểu của riêng mình. Và sau đây là cách tiếp nhận của riêng tôi.
Tôi bắt đầu bằng việc đi vào cái tôi trữ tình tác giả. Lê Minh Thắng tự hỏi chính nhịp đập trái tim mình bằng muôn vàn câu hỏi. Rồi anh tự nhận biết mọi quan hệ tương tác trong không gian: “Tôi hỏi tôi nhịp đập trái tim/ có phải đã chết trên dòng sông hiện hữu/ nơi thi vị ngập tràn những đôi mắt/ sáng tối vô minh trên bức tường vô hình/ phủ bóng lên trang sách tình yêu/ dở dang tôi hằng viết”. Từ sự nhận biết, cuối cùng anh linh cảm được những gì đã qua kiểm nghiệm từ trái tim và ánh sáng để hiểu mọi dại khôn trên cõi đời này. Đây là một kiểu tư duy đa phức được thể hiện thông qua ngôn ngữ thơ cũng đa phức nên thông điệp trở nên hàm ngôn và đa nghĩa:
Tôi nhận biết giữa không gian cách biệt
thấp thoáng ngôi sao xa tít
dịu êm lướt qua đôi môi đồng cảm
một góc trời chấm phá thành tâm
biết không em điều linh cảm
hiện thực trong đôi mắt tôi
xa mà gần
hạt cát niềm tin và ánh sáng
buông giữa dòng đời biết mấy dại khôn.
(Điều linh cảm)
Như có lần tôi đã nhận xét, ngôn ngữ thơ Lê Minh Thắng luôn diễn ra trong một chuyển động phẳng (flat motion), nó có khả năng liên hệ và nối kết các sự vật, hiện tượng từ gần đến xa và ngược lại, từ xa đến gần để hiện hữu trong nhau những tồn tại khả thể và biến thể trong cuộc sống, trong thiên nhiên: “Ý thức trở về giản đơn/ không gian đa chiều và sự chuyển động/ ngoài tầm kiểm soát của những thiên thời/ cái tương đối và tuyệt đối/ trong lòng bàn tay vạn vật hấp dẫn”. Tất cả đều trông đợi và nương tựa vào ánh sáng để nhận ra mọi bắt đầu và kết thúc của vạn vật:
Thế giới cảm quan trong đôi mắt anh
hạt cát sơ khai đến khởi nguyên đất trời
ánh sáng cô đơn
tự tại trên cây nến tĩnh tâm.
(Ánh sáng cô đơn)
Cứ thế, anh nhận biết chung quanh và mọi vật bằng cái nhìn sinh thái thiên nhiên và sinh thái xã hội trong ước vọng điều bình lẫn nhau để con người không thôi hy vọng vào những điều hằng cửu tốt đẹp: “Đôi mắt nương rẫy lẫn vào tiềm thức/ chiếc lá lơ lửng một đời không định/ tôi nghe trong từng giọt nắng/ tiếng gọi muôn thức/ cây cọ nơi hoang dã/ kỳ vọng gì trong sâu thẳm mùa thu” (Cây cọ nơi hoang dã). Bởi vì, anh tin rằng: “Một ngày nào đó ta nhận ra/ kiếp lá nhẹ thênh giữa muôn trùng xao động”. Và hơn thế nữa! Những gì đồng nghĩa với hy vọng, tin yêu:
Một ngày nào đó ta nhận ra
gánh nặng lo âu bươn chải cuộc đời
…
Một tiếng lá ta ngộ góc ban chiều
son thiếp hư danh hoàng hôn ngún cháy
bao thăng trầm tan biến vào dĩ vãng
khoảnh khắc tin yêu còn lại trong ta.
(Một ngày nào đó ta nhận ra)
Cứ thế, người thơ không ngừng cảm niệm và chiêm nghiệm mọi quan hệ và kinh nghiệm sống: “Con đường chiêm nghiệm trải ra hun hút/ niềm tin bất tận chân trời xa/ anh cùng em một bầu nhiệt huyết”. Anh tin, sự vật được nhìn bằng ánh mắt thôi miên và giấc mơ di truyền theo cánh diều bay lả:
Ánh mắt thôi miên kỳ ảo vọng
đường bay dài rộng thoáng bóng mây
núi non chập chùng đổ xuống chân đồi hun hút
cánh diều bay lả
giấc mơ di truyền.
(Giấc mơ di truyền)
Và như thế, đời còn hy vọng vào những gì gần gũi và thánh thiện, lan tỏa yêu thương: “Em có nghe đêm thâu tiếng nước/ tiếng lửa reo trước thềm/ tấm lòng son thời bỏng cháy/ giá sương kết nối biết tỏa lan/ đám mây biến cố vô định hình/ cầu vồng giao nhau tứ sắc/ thời buổi những cái bóng không dây và có dây xuyên suốt/ cuốn theo đường hướng/ cuối trời sinh linh” (Ngọn gió mới cuốn theo đường hướng). Anh tin rằng ở đâu đó, người vẫn thương người lắm, bên kia sông, có ai đó gọi mình:
Tiếng gọi bên kia sông
không ai oán
thanh âm dạt dào hay cách trở
xa nhau chừng con nước
bến sông này
dập dềnh đi về đâu
hỡi người
(Tiếng gọi bên kia sông)
Dù gì, đường chân trời vẫn rộng mở và ánh sáng vẫn luôn đổi ngôi để mọi niềm yêu sinh nở trong ánh hào quang chói rạng: “Bước chân rì rào sóng cát/ dọc ngang vô số thành bại/ vòng nguyệt quế lấp lánh ánh hào quang / chớp mắt một thoáng xa xăm/ một chiều em sẽ thấy/ giấc mơ chạm tới vô cùng/ con đường gió cát nơi ta nhận biết/ vô thường/ một đời trắc nghiệm/ hoang phế và thiện lương” (Gió cát một đời trắc nghiệm). Thời gan và chiêm nghiệm đời người sẽ giúp mỗi chủ thể hiện sinh nhận ra chính mình và tha nhân để thấy mọi thanh tân đang chờ phía ban mai hồng hào rạng rỡ:
tín đồ ngàn vạn lung linh
cây thời gian vắt lên tầng chiêm nghiệm
rời mắt qua những hình hài mang hồn thật giả
dùng dằng một níu kéo
một bước chân
qua ngõ thanh tân
một ban mai thấp thoáng phía không người.
(Thanh tân biết mấy con đường)
Trong thơ Lê Minh Thắng, dù có thấp thoáng cảm thức phù du của kiếp người, nhưng cuối cùng, anh hóa giải nó bằng niềm tin bao la có cánh:
giấc mộng tràn đầy tất cả
buông trước thềm bao la.
(Khúc bàng hoàng)
từ mặt phẳng đến lồi lõm
chiếc bánh đích thực quay vòng
thời của nước
và lửa
sự chuyển hóa đã quy trình
(Bên gốc cây tình sử)
Cánh én tin vui lối heo may
khúc mùa xuân trước thềm nhạt nắng
vườn địa đàng ngây ngất thi ca
ngàn mắt lá sinh tồn
Ngàn mắt lá để làm nên những nhành xuân rộn tiếng chim ca:
Nhánh xuân sang vang lên tiếng hót
tiếng chim bồi hồi hay tiếng em ca
hát về bầu trời đương thì
nơi sản sinh nguyên tác
giấc mơ vàng những cánh hoa
viên mãn bay lên
(Khúc mùa xuân)
Toàn bộ tập thơ Ánh sáng đổi ngôi được Lê Minh Thắng tư duy bằng phạm trù thời gian. Thông qua trục không - thời gian (chronotope), anh bắt không gian và mọi đối tượng đều trở thành thời gian (không gian hóa thời gian, đối tượng hóa thời gian) để anh đi tìm và hình thành, sáng tạo lại thời gian: thời gian nội tâm và thời gian khách quan thường nghiệm. Và theo anh, cũng chỉ qua phạm trù thời gian ấy, anh mới thực là mình, khách thể mới thực là khách thể - một khách thể đã thành chủ thể, thông qua cái tôi đang tư duy của nhà thơ:
Mùa thu vàng cái vẫy tay
cây cầu ao nghiêng bóng nước
bến vạn kiếp hồn lá bay
tình vu vơ người về an lạc
thủy mặc nơi đây có hẹn hò.
(Người về an lạc)
Chỉ có kiểu tư duy và kiểu đồng hiện thời gian như thế, Lê Minh Thắng mới quay ngược dòng sông tuổi thơ và bắt gặp lại thời gian ký ức cội nguồn trong veo như cổ tích và huyền thoại. Vì vậy mà câu hỏi: Tuổi thơ đi về đâu đã được giấc mơ trả lời: “Tuổi thơ trong giấc mơ/ đàn chim vui sải cánh/ tìm gì nữa những tiếng hót/ một trời cao đang huyền thoại/ bao tấm lòng đã mênh mông” (Tuổi thơ đi về đâu). Ngay cả “em” trong đồng hiện của người thơ cũng đã được định vị trong lung linh ánh nắng để nhận ra mọi da diết ân tình:
Bâng khuâng em trong đám cầu vồng
nhặt lung linh trên tầng nắng ảo
nhánh tơ hồng vắt ngang dải yếm
cuối xuân thì ân tình gió mây.
(Xuân thì)
Với sự chiếm lĩnh thời gian theo kiểu tư duy huyền thoại và cổ tích như thế, Lê Minh Thắng đã bắt không gian phải mênh mông, vô định và không đóng khung trong những hữu hạn: “không gian vận trù không biên giới/ tôi níu thời gian bằng những thanh âm/ tiết tấu không ràng buộc/ họa đồ nhân thế bằng những bức hình/ đoản khúc không đóng khung”. Và vì thế, chủ thể hiện sinh mới có cơ hội làm chủ thời gan và lãng du qua những miền hiện thực và hoang tưởng có thật và hợp lý: “Tôi nhón tháng ngày từng lãng du/ ngẫm nhìn hoa lá rải gấm vàng/ nhặt một chút hương tình nơi lòng sông suối dạ/ vắt vào đây đôi giọt tường minh/ bức ảnh đương thì đăng vô hình”. Trong cảm thức và cảm niệm của người thơ, thời gian đã thành nguyên cớ để con người tiếp tục tồn tại, mơ mộng và lãng du qua truông dài, phá rộng mong gõ nhịp và hoà hợp với thiên nhiên:
thời gian như nguyên cớ
đào núi hóa sông đắp đền đài danh tiếng
vó ngựa dặm trường đến cửu vạn
người về lưng chừng trên sương giá
biển sông nối nhau con sóng bạc
tôi heo may đánh bóng lên non.
(Thời gian như nguyên cớ)
Không gian bầu trời và tiếng vọng nơi đường chân trời xa tít đôi khi tĩnh lặng đến không ngờ, nhưng nhờ chúng mà nhà thơ đã không bao giờ nguôi thao thức và chờ đợi những thanh âm vang vọng: “Chiếc khóa thường nhật anh đã dành/ tiếng vọng bầu trời xa xăm/ không gian tĩnh lặng/ trăm năm thao thức/ đôi người” (Tiếng chuông gió trên ban công). Thơ Lê Minh Thắng nhiều lúc phản ánh cái nhìn âu lo và vô nghĩa của chủ nghĩa hiện sinh nhưng không bi quan tiêu cực mà vẫn tràn ngập hành động, cảm nhận và sống trong viễn tưởng (perpectives) tốt đẹp của mỗi chủ thể hiện sinh tích cực:
giờ khắc sinh thời
không hay định mệnh
hai phía đông tây mặt trời thoi thóp
đối cực phiên nhau xanh đỏ
sự sống treo trên những lằn ranh
tấm gương phân chia sáng tối
ngẫu hứng về những trò chơi
phép tắc quân bài di động
Trên cánh đồng hận thù
những nắm tay đoản khúc tin yêu
cây lúa mạch ngoi ngóp chỗ đứng
ngọn cao áp chớp giật núi rừng
hàng bạch dương trổ bóng
những đường găng so bì
(Cây bạch dương trổ bóng)
Ở đó, mỗi trái tim luôn: “thổn thức điều mới lạ/ người và người dìu nhau trong ý chí” để mọi duyên phận tốt đẹp và nghiệt ngã đều hiện lên thành những tàng cây hy vọng và những nhành nguyệt quế, những bản hoà tấu về một miền đất hứa sẽ đánh thức trí nhớ và tư tưởng trong tương lai:
Cây cầu duyên vắt vẻo bờ an
dòng nước uốn quanh nghiệt ngã
cuộc trường chinh dưới tàng cây hy vọng
khói bụi tung bay cuốn theo nhành nguyệt quế
bản hòa tấu để quên trong trí nhớ
miền đất hứa đi về đâu.
(Bản giao ước trên dòng sông)
Lê Minh Thắng luôn mong mỏi và kêu gọi mọi hữu thể hãy quay về, ý thức sự tồn tại của thời gian. Điều này cũng được chủ nghĩa hiện sinh đề cao, để con người và sự vật luôn tự chứng ngộ bản thân mình và hiểu hết ý nghĩa của sự tồn tại đó để cuộc sống và mọi hữu thể không vô nghĩa trước dòng thời gian đang thao thiết chảy: “con đường uốn quanh ngơ ngác tiếng chim ca/ nghĩ về một bầu trời êm đềm mây trắng/ cuốn hút giấc mơ nhân tình/ về đây thung lũng gió”. Từ đó: “bài du ca chiều hôm em hát/ đôi môi thất lạc cánh rừng/ thảm non xanh loang vết mực cô đặc/ tiếng gà gáy thấp thỏm ban mê”. Và mọi điều tốt đẹp sẽ hiện lên:
bản tình ca trên thung cất lên
đêm nghe suối hát nhân tình.
(Đêm nghe suối hát nhân tình)
Vì thế mà mọi nước nguyền dang dở, giờ vẫn còn đây với thiết tha và ngọt ngào dự cảm: “Lời ước xa xưa chưa phôi pha/ ta đi một thuở gót chân trần/ vượt ghềnh ráng về suối ngàn dự cảm/ nguyên khí thả hồn đúc kết chân thành” (Gió chiều nào thấp thoáng trên sông). Dẫu xa xôi nơi miền cô tịch, con người vẫn tồn tại để mọi hiện hữu không trở nên vô nghĩa trước mọi ký ức an bài:
Về miền cô tịch
cuốn sách đã hành trang
kỷ niệm dấu yêu trên tầng ý thức
vết lằn xanh in điệu sầu
thời gian chưa gáy trên cô đọng
tiếng dịu êm vỗ về vách đá
anh lưu lạc vào miền ký ức
lời hẹn ước hai ta dang dở
vầng trăng xưa đã an bài.
(Cuốn sách đã hành trang)
Bởi mọi tồn tại có trước bản chất nên con người có thể tự do lựa chọn cách hiện sinh theo cách và theo phán đoán của mình. Biết mình buồn, biết mình sợ hãi là biết mình tồn tại:
Tháng ngày cần mẫn trong vòng đời thi thố
đọng lại vách trăm năm
những trò chơi vui buồn nặng hạt
mưa và gió mang theo nhọc nhằn mặt nước
không hiểu vì sao
người mặc nhiên lên đỉnh
núi an bài.
(Núi an bài)
Được tự do lựa chọn nên con người cũng được tự do giải thoát, ít nhất là trong ý nghĩ và trong tư tưởng của mình: “Sự giải thoát sẽ làm ta thanh thản/ những ý nghĩ trời ban lưu giữa hai vách ngăn/ xin đừng hoa mỹ trên ban công vỉa hè/ cái giản đơn tia hồng đào thời che khuất/ đang hiện dần một ban mai chưa thấu/ những nhịp cầu thi vân” (Thi vân mấy nhịp cầu). Còn tư duy, còn nhận biết tức là con người còn tồn tại và còn khát vọng tự do:
Khép lại hành trang vào những
tháng năm đeo đuổi
bỏ lại muộn phiền trên dòng nước
mang mang cánh bèo
và những mơ hồ trên cánh đồng ánh sáng
tôi bước về khu vườn góc tĩnh lặng
một cánh hoa chớm nở trước thềm
nhánh xuân sang mang hơi ấm dịu êm.
(Ngày cuối năm)
Và vì thế, con người còn biết yêu thương, giận hờn và hy vọng. Dẫu khoảng cách có xa xôi, nhưng mọi ranh giới sẽ bị xoá tan để những tâm hồn yêu thương luôn giao hoà, an phước: “tình yêu và hờn ghen/ ranh giới người với người không đường nét/ đời khuất tất một nửa/ ta tìm nhau trong từng khoảng cách”. Dẫu chân trời bất tận và thẳm xa, nhưng con người sẽ lần theo từng vệt ánh sáng đổi ngôi để tìm về bến Kim Minh:
Sông Ngân đi qua thời gian
vầng trăng bến ngã
dịu êm con sóng trên dòng thanh bạch
chân trời bất tận
ta về
bến Kim Minh.
(Bến Kim Minh)
Có thể nói rằng thơ Lê Minh Thắng là thơ của sự đi tìm về bến Kim Minh trước muôn trùng hệ luỵ và bất ổn. Nhưng bản chất của con người là luôn đi tìm những khát vọng Chân - Thiện - Mỹ nên tước bao lo âu, phi lý, hư vô, con người vẫn hướng về mình và tha nhân trong khát vọng tự do và dấn thân, có khi là nổi loạn để hoá giải hoàn cảnh và giải phóng mọi ràng buộc để tìm cho được ý nghĩa của sự tồn tại. Đó là toàn bộ giá trị văn hoá và triết mỹ trong tập thơ Ánh sáng đổi ngôi của Lê Minh Thắng.
***
Khép lại tập thơ Ánh sáng đổi ngôi của Lê Minh Thắng, người đọc thoả mãn được nhu cầu tiếp nhận thơ theo phạm trù cái Mới và cái Khác. Tất cả được bắt đầu bằng việc thay đổi cái nhìn nghệ thuật, tư duy nghệ thuật và cảm hứng nghệ thuật, kế đến là việc chọn lựa ngôn từ để tạo thành cấu trúc diễn ngôn mới lạ, giàu khả năng tạo sinh nghĩa bất ngờ, biến ảo cho từng hình tượng nghệ thuật. Tất cả hệ quả trên đều đựa trên sự thể hiện cái tôi trữ tình tác giả/ hình tượng tác giả luôn thay đổi và vận động trước hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ và cắt nghĩa chúng theo tâm thức hiện sinh của thời hiện tại đang tiếp diễn mà tác giả chiêm nghiệm, sống trải. Vì vậy, tứ thơ và triết mỹ thơ hiện ra cũng sâu sắc, mới mẻ theo kiểu khả giải, bất khả giải nhưng lại vô cùng hấp dẫn, có khả năng vẫy gọi liên chủ thể tiếp nhận thời hiện đại cùng đồng thuận và đối thoại. Toàn bộ đặc điểm thi pháp trên đã làm nên giá trị và vị trí của tập thơ Ánh sáng đổi ngôi trong dòng chung của thơ đương đại Việt Nam./.
Vỹ Dạ, 15 - 7 - 2024
PGS.TS. Hồ Thế Hà