VỀ QUÊ
Mình về Hạ Trạch quê nhà
Lòng vui thôn xóm thay da đổi hình
Có Đảng dẫn dắt tận tình
Giảm nghèo, xoá đói chuyển mình hơn xưa
Ai đi mô cũng nhớ về Hạ Trạch
Một làng quê thanh bạch
Có nam núi, bắc sông
Hình làng tựa thuyền Rồng
Đang vươn mình lướt tới
Từ Sác Hà, Sác Nại
Đến thảo ôôc khu Trùa
Đồng hai vụ tôm, cua
Thay màu xanh khoai sắn
Rượng Đồng Ran, Đồng Rú
Dân lao động chuyên cần
Đến Mùi Đớ, Mùi Bần
Lúa chiêm mùa nặng hạt
Cánh đồng làng bát ngát
Ruộng Đồng Cửa, Cân Về
Bàu Mụ Quảng, Mụ Tề
Bàu Hói Đun, Hói Đá
Đồng ông Vườn, ông Xả
Đồng Chủ Quỷ, Chủ Thanh
Lúa tốt hẳn như tranh
Thu cơm côi, cá dưới
Theo tinh thần đổi mới
Làng ở vẫn như xưa
Mặt tiền dãy nhà Thờ
Tổ Tiên ta an lạc
Hậu làng có Cồn Sác
Án ngữ gió Bắc phong
Ngăn phá hoại ruộng đồng
Dân an cư lạc nghiệp
Ai đi mô cũng nhớ về làng Hạ
Là một làng đại xả
Có sông núi hai bên
Nước thuỷ triều xuống lên
Có cầu Gianh qua lại
Đường đi vào Ba Trại
Có lắm dốc, nhiều khe
Có thuỷ lợi Cửa Nghè
Có Vực Sanh, hồ chứa
Có lượng long sinh thuỷ
Nước tưới đủ hai màu
Đằng sau đồng mặn, chua
Nước Linh Giang xuất nhập
Vào rừng leo hết dốc
Đến đỉnh núi Hòn Trùa
Đường thượng đạo ngày xưa
Nay đã thành đường nhựa
Trèo lên dốc Cổ Ngựa
Đến đỉnh núi Cù Sơn
Mái thông nhựa xanh rờn
Nghe chim kêu, vượn hú
Về xóm Làng, xóm, xóm Rú
Đường đi lại dọc ngang
Xóm, làng ở thẳng hàng
Chẳng khác nào đô thị
Có núi non hùng vị
Lăng mộ có sáu vùng
Cù Sơn, Thuỳ Đạo, Mái Hung
Rẩy Tranh, Đồng Đớ, Phố Đồng mộ bia
Trong quá trình ngàn năm lập nghiệp
Gốc cội nguồn tộc Nguyễn, Lưu, Lê
Tiền nhân chỉnh trang đủ bề
Đình, Chùa, Miếu, Mảo, Nhà Thờ khang trang
Dân lao động cần cù chăm chỉ
Người xa quê ai cũng làm nên
Văn chương, võ nghệ, danh truyền
Trang sử sách, tiền hiền mãi lưu
Nhìn cảnh củ, có nơi biến dạng
Muốn đổi mới hợp thời hợp cảnh
Gần xa mời góp ý luận bàn
Làm sao cho xứng quê làng Cao Lao.
Dưới đây là bút tích của ông Lê Chiêu Thổ